trời cao đất dày

Sự tích bánh chưng - bánh giầy (hay còn gọi sự tích bánh chưng [1] bánh dày [2]) giải thích nguồn gốc của hai thứ bánh cổ truyền và phản ánh quan niệm sơ khai của người xưa về vũ trụ: trời tròn, đất vuông.. Ngoài ra, cũng như nhiều truyện cổ dân gian khác, câu chuyện có ý nghĩa giáo dục sâu sắc về nền 4. Giải thích đặc tính của đất Sét. Đất sét chứa các hạt nhỏ nhất trong số hai loại đất còn lại. Các hạt được đóng gói dày đặc đến mức có rất ít hoặc không có vùng trời. Do đó, đặc tính này giữ nước một cách hiệu quả. Biết ngã mạn cao ngút trời nên giảm bớt tự mãn cống cao. Hiểu những hoài niệm vụt đến nhanh hơn gió cuốn nên giữ tâm chánh niệm. Nhận ra tâm vọng dấy khởi dày như cỏ dại nên lắng đọng và tịnh trừ. Nguồn : phatgiao.org.vn Print 7 Năm 2022 21 Thứ năm Tháng Sáu 23 Năm Nhâm Dần Đinh Mùi Ất Hợi Bính Tý Tiểu thử Click vào bông sen ở trên để biết sự kiện! Cao dày Danh từ (Từ cũ, Văn chương) trời cao và đất dày; dùng để chỉ đấng thiêng liêng, theo quan niệm thời xưa "Độ sinh nhờ đức cao dày, Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung." (TKiều) Tính từ (Ít dùng) (công ơn, công đức) lớn lao như trời đất công ơn cao dày tác giả Khách Tìm thêm với Google.com : NHÀ TÀI TRỢ Lớp vỏ Trái Đất có độ dày từ 5 đến 70km. Chọn C. Khoảng cách trung bình từ Trái Đất đến Mặt Trời bao nhiêu? Tính giờ và ngày ở Việt Nam, biết rằng ở thời điểm đó, giờ GMT đang là 24 giờ ngày 31-12. Gió ẩm gặp núi, vượt lên cao, Màn Hình Led P4 Ngoài Trời Bảo Hành 36T | Bảng Báo Giá Chuyên cung cấp giải pháp hiển thị công nghệ cao giải pháp phòng họp trực tuyến màn hình led Số 262 Khu đất dịch vụ Xa La, Hà Đông, Hà Nội Email: thanhcndt1995@gmail.com. Thống Kê Truy Cập. Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd. Những bài ca dao - tục ngữ về "trời đất" Dù cho đất đổi trời thay Dù cho đất đổi trời thay Trăm năm vẫn giữ lòng ngay với đời Thấy anh hay chữ, hỏi thử đôi lời Thấy anh hay chữ, hỏi thử đôi lời Vậy anh có biết ông trời họ chi? – Em ghé tai xuống đất, kêu đất nó ơi Rồi anh sẽ nói họ ông trời cho em nghe Chữ thiên là trời, trời cao lồng lộng Chữ thiên là trời, trời cao lồng lộng Chữ địa là đất, đất rộng mênh mông Chữ hà là sông, sông dài lai láng Em hỏi anh rày quê quán ở đâu? – Chữ thiên là trời, trời cao lồng lộng. Chữ địa là đất, đất rộng thinh thinh Nói ra sợ bạn buồn tình Đêm nằm lụy nhỏ như bình nước nghiêng Ngó lên trời, trời cao lồng lộng Ngó lên trời, trời cao lồng lộng, Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông, Cá lòng tong ẩn bóng ăn rong, Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng, Đến đây xui khiến đem lòng thương em. Dị bản Cây trên rừng hoá kiểng, Cá dưới biển hoá long, Con cá lòng tong ẩn bóng ăn rong. Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng, Đến đây trời khiến đem lòng thương em. Trên trời có mây hóa kiểng, Dưới biển có cá hoá long. Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng, Tới đây trời khiến đem lòng thương em. Trên rừng có cây hoa kiểng, Dưới biển có cá hóa long. Con cá lòng tong ẩn bóng ăn rong, Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng, Tới đây trời khiến đem lòng thương em. Cây trên rừng hóa kiểng, cá ngoài biển hóa rồng Cá lòng tong giữa bóng ăn rong Anh đi lục tỉnh giáp vòng Tới đây ông trời khiến đem lòng yêu em. Làm người phải có trí khôn Làm người phải có trí khôn Nghĩ sao cho hết đất vuông trời tròn Lên rừng biết núi biết non Xuống khe biết nước chảy đá mòn, con cá lội giương vi Trời cao cao bấy không xa Trời cao cao bấy không xa Đất kia rộng vậy thế mà dày sâu Bể xa mây nước mù mù Biết mô cửa lạch biết mô sông cùng Ai xui đất thấp trời cao Ai xui đất thấp trời cao Để cho tôi đứng tôi gào hết hơi Hết hơi chẳng thấy trả lời Thấy trong trời đất có tôi đứng gào Trời cao hơn trán Trời cao hơn trán Trăng sáng hơn đèn Kèn kêu hơn quyển Biển rộng hơn sông Anh đừng thương trước uổng công Chờ cho thiệt vợ, thiệt chồng hãy thương Dị bản Trời cao hơn trán, đuốc sáng hơn đèn Kèn kêu hơn quyển, biển rộng hơn sông Anh thương em linh láng tràn đồng Bây giờ em lại kiếm chồng bỏ anh. Ngó lên trời, trời cao lồng lộng Ngó lên trời, trời cao lồng lộng Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông Thương em xóm Thủ chưa chồng Anh muốn vô làm rể, biết em bằng lòng hay không? Cớ sao thấy mặt thì thương Cớ sao thấy mặt thì thương Hay chăng trời đất vấn vương cho mình? Em than một tiếng, trời đất xoay vần Em than một tiếng, trời đất xoay vần Chim trên rừng còn rơi lụy, anh là người trần, sao anh lại không thương? Dị bản Em than một tiếng than, trời đất xây vần, Chim trên cành còn khóc tức tưởi, huống chi kẻ phàm trần lại ngó lơ? Thiên Trời từ Hán-Việt. Lai láng Tràn đầy khắp nơi như đâu cũng có. Từ này cũng được dùng để chỉ trạng thái tình cảm chứa chan, tràn ngập. Lòng thơ lai láng bồi hồi, Gốc cây lại vạch một bài cổ thi. Truyện Kiều Thinh thinh Thênh thênh phương ngữ Trung và Nam Bộ. Lòng tong Còn gọi là lòng đong, tên gọi chung của một số loại cá nước ngọt hoặc nước lợ, thân nhỏ, thường được người dân đem kho khô hoặc kho nước với tiêu bột ăn cơm nóng. Cá lòng tong chỉ vàng Nam Kỳ lục tỉnh Tên gọi miền Nam Việt Nam thời nhà Nguyễn, trong khoảng thời gian từ năm 1832 tới năm 1862 khi Pháp chiếm 3 tỉnh Miền Đông và năm 1867 khi Pháp chiếm nốt 3 tỉnh Miền Tây, bao gồm sáu lục tỉnh 1. Phiên An, sau đổi thành Gia Định tỉnh lỵ là tỉnh thành Sài Gòn, 2. Biên Hòa tỉnh lỵ là tỉnh thành Biên Hòa, 3. Định Tường tỉnh lỵ là tỉnh thành Mỹ Tho ở miền Đông; 4. Vĩnh Long tỉnh lỵ là tỉnh thành Vĩnh Long, 5. An Giang tỉnh lỵ là tỉnh thành Châu Đốc, 6. Hà Tiên tỉnh lỵ là tỉnh thành Hà Tiên ở miền Tây. Bản đồ Lục tỉnh năm 1808 Kiểng Cảnh phương ngữ Trung và Nam Bộ. Chữ "Cảnh" là tên của Nguyễn Phúc Cảnh con cả của chúa Nguyễn Ánh, người được đưa sang Pháp làm con tin để đổi lấy sự giúp đỡ đánh nhà Tây Sơn, vì vậy được gọi trại ra thành "kiểng" để tránh phạm húy. Mô Đâu, nào phương ngữ Trung Bộ. Cửa lạch Hay cửa biển, nơi sông đổ ra biển. Quản Người Nam Bộ đọc là quyển, một loại nhạc cụ hình ống giống như ống sáo, ống tiêu. Thiệt Thật phương ngữ Trung và Nam Bộ. Chữ này được đọc trại ra như vậy do kị húy bà vương phi Lê Thị Hoa được vua Gia Long đặt tên là Thật. Xóm Thủ Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Xóm Thủ, hãy đóng góp cho chúng tôi. Lụy Nước mắt phương ngữ Nam Bộ, nói trại từ lệ. Trời cao thăm thẳm, đất dày Trời cao thăm thẳm, đất dày Bao giờ lính mộ sang Tây được về Vợ con thương nhớ ủ ê Biết rằng sang đấy có về được không? Cùng thể loại Hỡi ai đi sớm về trưa Hỡi ai đi sớm về trưa Kìa Bát Tốt Lát đón đưa chào mời Hương thơm khói đậm tuyệt vời Hút cho một điếu cho đời thêm tươi Dù anh văn hoá lớp mười Dù anh văn hoá lớp mười Anh chưa ra trận, em thời không yêu Dù anh sắc sảo, mỹ miều Nếu không ra trận, không yêu làm chồng Dị bản Dù em nhan sắc tuyệt vời Em không đánh Mỹ, anh thời không yêu Dù em duyên dáng, mỹ miều Nếu không đánh Mỹ, đừng kêu muộn chồng Vì thằng giặc mỹ Giôn-xơn Vì thằng giặc mỹ Giôn-xơn Nên ta phải vượt Trường Sơn qua Lào Thủ đô xa tự năm nào Giã từ Tam Đảo, vẫy chào Điện Biên Nay mai chiến thắng trăm miền Thủ đô, Tam Đảo, Điện Biên lại về. Cha chài, mẹ lưới bên sông Cha chài, mẹ lưới bên sông Đứa con thi đậu làm ông trên bờ Dị bản Cha chài, mẹ lưới, con câu Có con hay chữ làm quan trên bờ Đời mạt kiếp sao anh không thấy Đời mạt kiếp sao anh không thấy Phỉnh phờ anh nó nói giàu sang Xui anh vào lính Tây bang Để cho chúng nó ngủ an trên lầu Anh ơi phú quý về đâu Thân mình khổ cực bù đầu tóc xơ Anh mau về lúc bây giờ Ở nhà cha đợi mẹ chờ em trông Ai về Thừa Sủng mà coi Ai về Thừa Sủng mà coi, Tây đen Tây trắng xác phơi đồng Mờm. Quan Nghè ở tận trong hang Quan Nghè ở tận trong hang, Thằng Tây mò đến quan phang bể đầu. Khen cho Cao Thắng tài to Khen cho Cao Thắng tài to Đúc được súng ống in đồ như Tây Tiếng đồn đây đó Cao thầy Khen cho mưu mẹo có tài khôn ngoan. Khen cho Cao Thắng tài to Khen cho Cao Thắng tài to Lấy được súng giặc về cho lò rèn Súng ta chế được vừa xong Đem ra mà bắn nức lòng lắm thay Bắn cho tiệt giống quân Tây Cậy nhiều súng ống phen này hết khoe. Can trường Tri Lễ là đây Can trường Tri Lễ là đây Ông Cao Thắng chế súng đánh cho Tây nhừ đòn Có cùng từ khóa Tài nguyên than mỏ nước Nam Tài nguyên than mỏ nước Nam Thằng Tây làm chủ, mình làm cu li Chỉ vì đói rách phải đi Đi làm phu mỏ, bỏ quê, bỏ nhà Một nghìn chín trăm ba ba Là năm Quý Dậu con gà ác thay Kể dời phu mỏ Hòn Gai Công ty than của chủ Tây sang làm Chiêu phu mộ Khách, An Nam Cuốc tầng khai mỏ tìm than ra vầy Than ra ở các mỏ này Hà Lầm, Hà Sú, mỏ rày Ngã Hai Bán than cho các nước ngoài Tàu bè ngoại quốc vãng lai mua dùng Chủ nhì, chủ nhất, đốc công Mỗi sở một sếp cai trong sở làm Làm ra máy trục, máy sàng Sở Tàu, Than Luyện, Sở Than chung là Va-gông, than chở về ga La-ga đặt ở Cốt Na cổng đồn Để cho xe hỏa dắt dồn Thật là tiện lợi gọn gàng vân vi Ăng Lê, Nhật Bản, Hoa Kỳ Hồng Kông, Thượng Hải đều thì sang mua Cửa Ông là Cẩm Phả po Cẩm Phả min, Cọc Sáu, cùng là Mông Dương Ngoại giao các nước thông thương Hòn Gai giàu vốn lại cường thịnh ra Tây Bay coi sổ la voa Bắc ngay đường sắt cho xe thông hành Một đường đi thẳng Hà Lầm Một đường Núi Béo, Cọc Năm đi về … Tìm vào đến mỏ Hòn Gai Tìm vào đến mỏ Hòn Gai Xin làm phu mỏ ở ngay dưới hầm Cuộc đời vất vả âm thầm Mông Dương, Cẩm Phả, Hà Lầm đều qua Ông Tây con chó làm thinh Ông Tây con chó làm thinh Ai chê chẳng sợ ai khinh chẳng nhờn Thằng Tây mặt trắng như vôi Thằng Tây mặt trắng như vôi Trắng răng mũi lõ đuổi tôi thế này. Ai sinh ra Hà Sú này Ai sinh ra Hà Sú này Có anh cai Bút ngày ngày vênh vang Quần lơ lại vận áo vàng Chân thì tập tễnh nhưng quàng giày Tây. Em là con gái tỉnh Nam Em là con gái tỉnh Nam Chạy tàu vượt biển ra làm Cửa Ông Từ khi mới mở Cửa Ông Đi làm thì ít, đi rông thì nhiều Chị em cực nhục trăm điều Trước làm một lượt đã trèo cầu thang Đặt mình chưa ấm chỗ nằm Đã lại còi tầm hú gọi ra đi Dế kêu, suối chảy rầm rì Bắt cô trói cột não nề ngân nga Đoàn người hay quỷ hay ma Tay mai, tay cuốc, sương sa mịt mù Hai bên gió núi ù ù Tưởng oan hồn của dân phu hiện về. Mẹ ru con ngủ cho ngoan Mẹ ru con ngủ cho ngoan, Mẹ còn xúc nốt xe than cho đầy, Mẹ ru con ngủ cho say, Làm xong chuyến nữa nghỉ tay mẹ về Tháng lương được có ba hào Tháng lương được có ba hào, Thúng than trên đầu nặng lắm con ơn! Hòn Gai, Cẩm Phả, Đông Triều Hòn Gai, Cẩm Phả, Đông Triều Cuộc đời phu mỏ đói nghèo đắng cay Giam chân chốn sở than này Thân con ắt bón gốc cây giữa rừng. Tàu vào dân chúng mừng thầm Tàu vào dân chúng mừng thầm Than ăn vạn tấn, mà tiền vẫn không Nay Phòng, mai lại đi Kông Trở về chỉ thấy cặp không với người. Lính mộ Lính được chiêu mộ. Từ này thường dùng để chỉ những người bị thực dân Pháp gọi mộ đi lính trước đây. Lính khố đỏ. Bastos Luxe Giới bình dân gọi là "Bát Tốt Lát" hay "Bát Tốt Lút," một nhãn thuốc lá đầu lọc của hãng Juan Bastos phổ biến vào những năm 1960 ở Sài Gòn. Hệ giáo dục phổ thông miền Bắc từ năm 1956 đến năm 1985 chia làm ba cấp cấp I bốn năm, cấp II và cấp III mỗi cấp ba năm, tổng cộng là mười năm. Giôn-xơn Lyndon Baines Johnson, tổng thống thứ 36 của Mỹ, nắm giữ hai nhiệm kì từ năm 1963 đến năm 1969. Ông này chủ trương đẩy mạnh sự can thiệp của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, mà tiêu biểu là việc triển khai quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964. Tổng thống Mỹ Johnson Trường Sơn, Lào, Thủ Đô, Tam Đảo, Điện Biên đều là tên của các nhãn hoặc loại thuốc lá phổ biến ở miền Bắc vào những năm 1960-1970. Thuốc lá Điện Biên Theo sách Cố đô Huế của Thái Văn Kiểm Theo cụ Tùng Lâm, câu này do đám dân chài làng Quảng Tế, huyện Hương Trà đặt ra để nhắc lại sự tích ông Huỳnh Hữu Thường, con một ngư phủ, mà biết chăm lo việc học hành, thi đỗ Cử nhân, rồi đỗ Hoàng giáp, làm quan đến Thượng thư. Vua Tự Đức rất mến ông, nhận thấy làng ông không có đất đai chi cả, bèn hạ chỉ cắt 20 mẫu đất làng Nguyệt Biều giao cho làng Quảng Tế để có đất cho dân cư ngụ, trồng trỉa và xây cất đền chùa. Thừa Sủng – Đồng Mờm Địa danh nay là nơi tiếp giáp giữa hai huyện Yên Thành và Diễn Châu, nơi xảy ra trận đánh giữa nghĩa quân Nguyễn Xuân Ôn và quân Pháp vào năm 1886. Trận này nghĩa quân thắng lớn, tiêu diệt hàng trăm tên địch. Nguyễn Xuân Ôn 1825 – 1889 Cũng gọi là Nghè Ôn, một vị quan nhà Nguyễn và thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nghệ Tĩnh cuối thế kỷ 19 trong phong trào Cần Vương. Cao Thắng 1864 – 1893 Quê xã Sơn Lễ, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, là trợ thủ đắc lực của Phan Đình Phùng và là một chỉ huy xuất sắc trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê 1885-1896 thuộc phong trào Cần Vương. Ông có công chế tạo súng cho nghĩa quân, gây ra tổn thất lớn cho thực dân Pháp. Tháng 11/1893, Cao Thắng hi sinh trong trận tấn công đồn Nu Thanh Chương khi mới 29 tuổi. Can trường Gan dạ, coi thường hiểm nguy. Tri Lễ Địa danh nay là một xã thuộc huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An. Cu li Từ tiếng Pháp coolie, chỉ người lao động làm những công việc nặng nhọc. Hồng Gai Cũng gọi là Hòn Gai, tên cũ là Bang Gai hoặc Áng Gai, nay là một phường thuộc thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Cuối thế kỷ 19 trở về trước, đây là một vùng vắng vẻ, cư dân thưa thớt, vốn chỉ là vũng biển đậu thuyền. Tại đây có mỏ Hòn Gai, một mỏ than đã được đưa vào khai thác từ thời Pháp thuộc. Một góc mỏ than Hòn Gai thời Pháp thuộc Công ti than Bắc Kì Tên tiếng Pháp là Société française des charbonnages du Tonkin viết tắt là SFCT, một công ti Pháp được thành lập 1988 với mục đích quản lí và vơ vét tài nguyên than đá ở Hạ Long với thị trường xuất khẩu chính là Nhật Bản. Công ti này tuyển dụng người Hoa "khách" và người Việt làm phu mỏ với mức lương rẻ mạt. Đây là cái nôi ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam nói chung và công nhân khu mỏ Quảng Ninh nói riêng. Mỏ than Hà Tu thuộc công ti than Bắc Kì Chú khách Một cách gọi người Hoa sống ở Việt Nam. Từ này bắt nguồn từ chữ "khách trú," cũng gọi trại thành cắc chú. An Nam Tên gọi của nước ta trong một số giai đoạn lịch sử. Tiêu biểu nhất có lẽ là dưới thời kì đô hộ của thực dân Pháp, khi nước ta bị chia thành ba kỳ. Hà Lầm Địa danh nay là một phường thuộc thành phố Hạ Long. Tại đây có mỏ Hà Lầm, một mỏ than đã được đưa vào khai thác từ thời Pháp thuộc. Hà Tu Tên cũ là Hà Sú, nay là một phường thuộc thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Tại đây có mỏ than Hà Tu, vào thời Pháp thuộc thuộc sự quản lí của công ti than Bắc Kì. Đường sắt mỏ Hà Tu Nguồn Thư viện quốc gia Pháp Ngã Hai Một khu vực thuộc xã Dương Huy, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Tại đây có mỏ than Ngã Hai, hiện vẫn còn được khai thác. Vãng lai Đi lại từ Hán Việt. Đốc công Người thay mặt chủ xí nghiệp trông nom công việc của thợ thuyền ngày trước. Cai Người trông coi trong các công trường, nhà tù thời phong kiến, Pháp thuộc. Va-gông Toa xe từ tiếng Pháp wagon. La ga Tiếng Pháp la gare, nghĩa là nhà ga. Nagotna Một mỏ than thuộc quyền sở hữu của công ti Than Bắc Kì dưới thời Pháp thuộc, nối với mỏ than Hà Tu bằng một tuyến đường sắt dài 3km. Vân vi Đầu đuôi câu chuyện, đầu đuôi sự tình từ cũ. Ăng-lê Nước Anh hoặc người Anh từ tiếng Pháp Anglais. Cửa Ông Địa danh nay là phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Tại đây có đền Cửa Ông, được xem là một trong những ngôi đền đẹp nhất Việt Nam, thờ Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng cùng nhiều nhân vật lịch sử thời Trần. Đền Cửa Ông Cẩm Phả Po Cảng Cẩm Phả "po" phiên âm từ tiếng Pháp port, nghĩa là cửa hoặc cảng. Cẩm Phả min Mỏ than Cẩm Phả "min" phiên âm từ tiếng Pháp mine, nghĩa là mỏ. Cọc Sáu Tên một mỏ than nay thuộc địa phận phường Cẩm Phú, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Mông Dương Địa danh nay là tên một phường thuộc thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Đây là nơi có mỏ than Mông Dương, một trong những mỏ thang có trữ lượng lớn và chất lượng tốt nhất từ thời Pháp thuộc. Khai thác than ở mỏ Mông Dương Tên Baille, sếp đường tàu hỏa. Núi Béo Tên một mỏ than nay thuộc địa phận phường Bạch Đằng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Cọc Năm Một mỏ than thuộc quyền quản lí của công ti than Bắc Kì dưới thời Pháp thuộc, nay thuộc địa phận phường Hồng Gai, thành phố Hạ Long. Cẩm Phả Một địa danh nay là thành phố thuộc tỉnh Quảng Ninh. Tại đây từ xưa đã nổi tiếng với ngành khai thác than đá. Cẩm Phả cũng có nghề khai thác hải sản với hơn 50 km bờ biển, nhưng chủ yếu là đánh bắt gần bờ, sản lượng thấp. Cẩm Phả về đêm Còi tầm Còi báo bắt đầu hoặc kết thúc giờ làm việc các xưởng, mỏ, công trường, nhà máy… Bắt cô trói cột Một loài chim thuộc họ Cu cu, chim trưởng thành nửa thân trên có màu trắng, nửa dưới có nhiều vạch trắng đen. Tiếng chim kêu nghe như "Bắt cô trói cột" nên dân gian lấy làm tên, sinh sống hầu như trên khắp nước ta. Nghe tiếng chim bắt cô trói cột. Bắt cô trói cột Dân phu Người dân lao động phải làm những công việc nặng nhọc trong chế độ cũ phu xe, phu mỏ, phu đồn điền. Hào Một trong các đơn vị tiền tệ hào, xu, chinh, cắc bắt đầu xuất hiện ở nước ta từ thời Pháp thuộc. Mười xu bằng một hào, mười hào bằng một đồng. Tiền giấy năm hào Đông Triều Tên một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh, là vùng đất cổ có từ thời Bắc thuộc, ghi đậm nhiều dấu ấn lịch sử và văn hóa. Đây cũng là nơi phát hiện ra than đá đầu tiên ở Việt Nam, và than đá Đông Triều đã được khai thác từ rất sớm – từ những năm 1820. Lăng mộ vua Trần ở đập Trại Lốc Cảng Hải Phòng Được xây dựng từ năm 1874, một cụm cảng biển tổng hợp cấp quốc gia, lớn nhất miền Bắc và lớn thứ hai cả nước sau cảng Sài Gòn, là cửa ngõ quốc tế nằm tại hai quận Hồng Bàng và Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Khu cảng chính trên sông Cấm còn gọi là bến Hoàng Diệu, trước gọi là bến Sáu Kho. Bến Sáu Kho ngày trước Tức Hồng Kông Hương Cảng. 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày 1/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Dương Nghiễm Mậu Trời Cao Đất Dày MỤC LỤC Bông hồng cho... Chuyến trở về sau cùng Trở về và nhớ Cánh đồng mùa xuân Giọt nắng Một nơi có người Cõi sóng lạnh Đôi mắt Ngày đốn cây vú sữa Truy tìm kẻ mất tích 2/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Bông hồng cho... Hai người lặng lẽ vượt qua dòng suối cạn, người cao qua trước đứng lại ngó người bạn còn ở dưới dòng nước trong vắt vẻ tần ngần, dòng nước trong nhìn rõ những viên sỏi nằm đan dưới đáy, khoảng trời nhỏ chạy theo với con suối, hai bờ rừng già cao những thân cây cao ngất khiến cho bầu trời trước mắt nhìn ngước lên như một cái vòm hút sâu, mặt trời đã xế nhưng trời xanh trong không một gợn mây, những ngọn cây đứng im trên cao đó, phía đầu nguồn sương rừng đã xuống một màu lam mơ hồ quyện lấy những lùm cây xa, lắng trong không gian chừng như tiếng chim rừng về chiều từ xa đang vọng lại. Người cao nói với xuống - Lẹ lên thôi mình phải tới chỗ an toàn trước khi trời tối không thì nguy đó nghe. Người dưới dòng vẫn tần ngần ngắm những viên cuội dưới đáy suối, ánh nước trong khiến cho những viên sỏi có những màu sắc kỳ lạ, người đó bỏ tay xuống mặt nước khua động, vẻ thảnh thơi như không quan tâm tới người chờ đợi. Lúc sau khi người trên bờ đã ngồi nghỉ nơi phiến đá, người dưới nước mới lên, nước còn đọng trên mặt, trên tóc, trên chân, người đó nói - Tôi sợ nước độc, trời chiều hơi lạnh nếu không tắm một cái thì mới thú…ai muốn tắm mát thì lên ngọn sông Đào, muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh… Rừng xanh thấy rồi mà sim chín thì không… - Lúc nào cũng như du sơn du thủy không bằng, định ở đây chờ cọp nó đến ăn thịt hay sao đây. - Yên chí đi, mệnh bọn mình to lắm, người còn chưa ăn được nữa cọp. Người thấp vừa nói vừa cười vẻ sảng khoái, tiếng cười vang động cả khu rừng yên tĩnh trong buổi chiều sương lam đang xuống. Người cao đứng lên khỏi phiến đá, mùi hoa rừng hoang dại thoang thoảng trong không khí, men theo những khe đá nhỏ, người cao lần bước không nói một tiếng, người thấp theo sau nhưng chốc chốc ngừng lại hái những bông hoa mọc bên khe đá với vẻ trìu mến. Lúc sau người thấp mới bắt kịp người cao - Chừng bao lâu nữa mới tới được chỗ ngừng chân ? Tôi nghe đói nữa , không có gì ăn thì nguy hiểm lắm. 3/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Cứ thơ thẩn chút nữa đi,khỏi cần ăn để mình làm mồi cho cọp có hơn không ? - Sao anh biết trong khu này có cọp, khu rừng dữ gì mà dễ thương thế, cây cao bóng cả, suối trong mát, chim kêu vượn hót, hoa cỏ kỳ diệu, ước cho mình được sống mãi trong khung cảnh như thế này… Tiếc là xưa kia tôi không được biết rằng trên nước non mình có những nơi kỳ thú như thế… Mình sẽ tới đâu ? - Tới nhà một người, tôi tin rằng tới đó anh sẽ không còn muốn đi đâu hết, xưa kia tôi đã sống ở đây… Hai người lặng lẽ bước, đã qua hết khoảng trời trống ven suối, thoát khỏi những tảng đá chồng chất lên nhau, nhưng bây giờ hai người đã phải bước vào bóng tối nhòa nhập trong khu rừng cao. Những thân cây lớn thẳng tắp nhìn lên mỏi cổ, tất cả như có một bàn tay sắp xếp thứ tự một cách mỹ thuật, màu mộc cũ của những thân cây chen vào nhau, không có một cành nào ngang trên lối đi. Hai người đều cảm thấy mình nhò bé trong rừng cây. Tiếng những bước chân lạo xạo trên lá khô tạo thành môt âm thanh vui tai. Người thấp nói - Tôi cảm thấy lạnh… có lẽ trong khu rừng này không hề có bước chân người đặt đến ? - Sao lại không, anh quên rồi sao, xưa kia đã có lúc tôi sống ở đây, anh có muốn tôi chỉ từng cây cho anh thấy không, tôi có thể đảm bảo trong khu rừng này, từ giữa ngọn suối nơi mình đã qua cho tới đây bao nhiêu cây cổ thụ. Hơn thế nữa, có người còn biết rõ từng thân cây lớn bao nhiêu, cây nào đáng được dùng vào việc gì… - Thôi chứ...anh mà còn đùa tôi nữa ? - Anh không tin tôi sao ? Tôi không biết mà sao dám dẫn anh đi, anh nhớ lại xem, từ trên đó ngay từ khi mình bắt đầu tôi đã nói với anh biết rồi, đi trong bao lâu thì hết khu đồi chè, hết bao lâu ngừng qua quốc lộ, bao lâu tới dòng suối, từ dòng suối phải đi… - Thôi anh khỏi nói, tôi nhớ ra rồi, nhưng tôi vẫn thắc mắc không biết anh đang tới đâu, mình có dẫn nhau vào trong một ngôi nhà đá nào không đó ? - Không có ngôi nhà đá nào hết, có một ngôi nhà tranh… Thôi đừng hỏi nữa, phải tin tôi chứ, mình sẽ tới… Khu rừng cao ấy không có dày, chỉ trong một khoảng ngắn hai người đã ra khỏi khu rừng, nhìn lại, những thân cao dựng đứng như một tường 4/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày thành được xây bằng đá trắng đã có rêu phong của thời gian. Trên cùng những ngọn cây màu lá xanh dặm mỏng. Chưa bao giờ mình được thấy một khu rừng như thế, người thấp vừa nghĩ ngợi vừa bước đi, đôi mắt vẫn không ngừng quan sát cảnh vật biến đổi không ngừng trên đường, mũi cũng như cố gắng tận dụng mọi khả năng thở hít cái không khí kỳ bí ngây ngất cuả thiên nhiên...Nếu được tới, được sống trong khung cảnh như thế này, không biết tới bất cứ điều gì, không gặp, không nói với ai… Chợt người thấp ngừng lại ngạc nhiên, cả hai người đã tới một bên sườn đồi dốc, phía dưới một thung lũng đầy sương, những vạt sương trắng đục như mây di dộng với những cơn gió một vẻ hư ảo, dưới đó là một thung lũng hay một vực thẳm. Cảnh vật nhờ nhờ trong ánh chiều yếu ớt càng khiến cho khung cảnh có một vẻ vừa thơ mộng vừa rê gợn. Người cao nói - Anh nghĩ dưới làn sương đục kia là gì, suối, vực hay thung lũng… - Tôi chịu, ở đây làm gì có người, anh có nhầm lẫn không đó, tối rồi mà mình còn ở một nơi như thế này, tôi bắt đầu thấy lo… - Cùng lắm thì ngủ ngoài trời này, người còn không sợ lại sợ thú dữ sao ? - Nhưng nếu trời mưa, đêm chắc lạnh lắm ? - Mưa với lạnh thì ăn thua gì,anh không nhớ những ngày ở trên đó sao, cái hồi bọn mình trong cái hang đá đó, thế mà cũng chẳng chết, chẳng lẽ bây giờ lại chết ở đây, cứ yên đi, tối nay mình sẽ có rượu ngon uống, có thể có thịt rừng nữa… - Thế còn cái món mỹ nhân… bao lâu rồi không còn được thấy bóng một giai nhân… bàn tay mềm mại, hương tóc hăng nồng… - Nghĩ tới những điều đó chắc anh hối hận theo tôi. - Cũng có lúc tiếc, nhưng điều đó không bao nhiêu, tôi hỏi anh, trong những lúc như lúc này mà anh không nghĩ tới một điều nào khác sao, không mơ mộng sao, tôi cũng có lúc nhớ nhà, tiếc cảnh cũ nhưng đâu phải vì thế mà tôi không làm những chuyện khác, con người ta đâu chỉ có một đời sống, những lúc hăng say trong công việc tôi chỉ thấy công việc, nhưng những lúc mình phải trốn chui trốn nhủi, những lúc thất thế, hay những lúc như lúc này thì tôi nghĩ đến những điều khác, chắc anh nghĩ tôi xuống tinh thần phải khộng. Chừng như anh lúc nào cũng nghĩ tới thành công, tới lúc phất cao ngọn cờ trở về, nhưng anh cũng biết đó, trong mưu sự đâu phải ai cũng thành công, bao nhiêu người bỏ mình trong tù ngục, gục ngã trên biên giới, và những trở về lầm lũi… 5/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Giọng người thấp bùi ngùi, người cao không nói đi men xuống sườn đồi - Thôi anh đừng nói nữa, chúng ta phải qua bên kia thung lũng. Hai người đi lần xuống, mây tạt ngang qua mặt, gió lạnh buốt, họ tưởng như lạc vào cõi u minh nào. Nhưng chỉ xuống thấp một khoảng thì họ đã ở dưới những lớp mây trắng, thung lũng quá sâu, dưới đó những ngọn đồi thấp nằm bên nhau trông rất ngoạn mục. Người thấp ngạc nhiên không nghĩ được rằng mình đã từ trên rất cao đi xuống. Ánh sáng trong thung lũng có một vẻ đặc biệt, màu trắng nhợt nhạt, như thứ ánh sáng của đêm trăng suông, mùi hoa dại đầy ắp trong không khí lạnh, trên cỏ long lanh những hạt sương. Những ngọn đồi cỏ cao, hoa cỏ màu gụ rung rinh theo chiều gió như mặt nước sóng sánh dưới ánh trăng. Chợt người thấp kêu lên - Có người ở đây… Người cao không nói, bước đi, họ vượt qua một khe nước nhỏ, qua một ngọn đồi cỏ chỉ cao lưng ống chân, những hoa cỏ may vượt cao , bây giờ nhìn lên cao bầu trời như bị úp bởi một màng lưới trắng muốt, hai người qua ngọn đồi, vượt thêm một khe nước nhỏ thì tới ngọn đồi có một căn nhà nằm trên đỉnh giữa mấy ngọn thông già, trông từ xa như một bức tranh Tàu cổ, nhưng lại gần thì càng ngạc nhiên hơn, cả ngọn đồi nhỏ không có một cây cỏ nào, toàn thể là một vườn hoa hồng bao la, một vườn hồng chỉ còn để lại một lối đi lớn vào giữa cửa nhà và những đường nhỏ chung quanh, trên những lối đi ấy , những khoảng trống có những chiếc bàn và ghế bằng những phiến đá lớn. Hương hồng tỏa ngát trong không khí, thật sự người ta không thể tưởng tượng được rằng cỏ khung cảnh như vậy ở giữa chốn rừng người bước lên lối đi, một lớp cỏ rêu xanh mướt bằng phẳng, bao nhiêu công phu để làm được một lối đi như thế, hai bên những cây hồng đầy hoa đỏ thắm, những bông hoa lớn nhỏ tươi mướt như nhung, trông những bông hồng đó ai cũng muốn hái nhưng tiếc rẻ nghĩ tới khi bông hoa tàn rụng… Đi hết con đường hai người ngừng lại trước sân nhà hình vuông, sân được dát những miếng đa xanh có gân trắng, trên những khe cỏ rêu xanh mọc, dưới gốc hai cây thông già uốn khúc có bể nước xây bằng đá, bên đó có những phiến đá mặt phẳng để không đều nhưng đủ là một chỗ ngồi trò chuyện cho một ít người, trước khung cảnh người ta nghĩ tới một nơi thờ tự trang nghiêm hơn la nơi có người ở. Ngôi nhà nhỏ được làm trên một nền cao có hiên , vách nhà bằng gỗ trông thô sơ đơn giản, những chiếc cột được làm nguyên bằng thân cây không hề bào chỉ bóc bỏ lần vỏ ngoài, hiên chạy chung quanh nhà, mái nhà lợp bằng lá gồi đan cẩn thận. Phía đầu nhà bên trái có một cái hiên làm dài ra ngoài cùng với nền nhà, nơi giữa hiên có một bàn cờ tướng, số quân cờ không đủ gây cho người nhìn thấy rõ như ván cờ đang đánh dở. Cả hai người 6/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày không nói một tiếng cùng nhau quan sát, chỉ người thấp là nhiều lúc kêu lên ngạc nhiên. Người cao bước lên hiên nhà đẩy cửa bước vào. Bóng tối dầy đặc ở bên trong, chừng như không còn ai ở lại trong nhà, người cao ngừng lại nơi bậc cửa - Cố nhân, cố nhân, có đàn em đến tá túc… Tiếng gọi vang lên rất lâu không nghe thấy tiếng người trả lời. Hai người bước vào trong nhà chỉ có một mùi ẩm mục, trong bóng tối có lúc những mạng nhện quấn vào mặt như một bàn tay vô hình nào. Người cao nói - Anh ấy đã không còn ở đây nữa. - Ai vậy, sao anh biết ở đây có người ? - Người anh cả của tôi, tôi đã có dịp ghé đây hồi trước, cũng năm năm trời rồi… Hai người đứng lại, người thấp thấy rợn người vì sự im lặng và ẩm mốc bao quanh, căn nhà như một ngôi nhà mồ không có một chút sinh khí. - Mình phải bật lửa lên. Vừa nói người thấp vừa bật hộp diêm giơ lên cao. Căn nhà vẫn còn nguyên như ngày nào. Một cơn gió lạnh thổi thốc từ nhà sau lên làm ngọn lửa phụt tắt. - Thôi đừng bật lửa, tôi đã nhìn thấy ngọn bạch lạp nơi trường kỷ rồi. Người cao nhắm vào hướng ngọn bạch lạp đi tới, rồi trở lại, que diêm được bật và châm vào, ánh sáng vàng soi căn nhà. Những vách ván màu gụ, chiếc bàn nhỏ bên tay trái với hai chiếc tràng kỷ đơn giản nhưng bằng một thứ gỗ quý đen bóng, một cửa thông vào phía trong, trên vách bên phải treo một cây cung có ở bên một cụm lan lớn cành lá và hoa đã khô. Người cao đứng lặng, ngó ngàng chung quanh, vẫn còn đó những bàn ghế, đồ đạc… nhưng đã không còn người xưa. Anh ấy đã đi đâu ? Con đường đưa lên biên giới với những mưu đồ cháy đỏ thời trẻ ? Giấc mộng chập chờn say đắm của cuộc tình ngày trưởng thành thơ mộng ? Con đường mòn nhỏ trong rừng thẳm với những bông la rừng diễm lệ, hay con hổ bạch lùng kiếm ngày nào trở lại với tiếng hú rung chuyển rừng xanh đã kết cục một cuộc sống những say đắm chết ngất như đỉnh trời cao rực rỡ một tuyệt đối…Khuôn mặt vuông vức, chiếc cằm những chân râu cứng, đôi mắt lớn màu hạt dẻ tinh quái, mái tóc hoa râm dấu tích những ngày tháng lận đận, tiếng nói sang sảng…Tất cả đã vắng, đã khuất… còn Đồi Hồng đỏ thắm, suối Hoàng Mai trong vắt, hiên Ngạo Thiên đầy ắp gió trăng… Trông bạn 7/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày sững người khiến người thấp cũng không dám cất tiếng, ngọn bạch lạp cháy bập bùng theo cơn gió lộng… Hai người bước vào nhà trong, ngọn bạch lạp trên tay đưa về phía trước, gian phòng lạnh trống, chiếc giường làm bằng gỗ quý rộng mênh mông nằm ép vào một bên ván, án thư không còn một cuốn sách chỉ có vô số những hòn đá đủ màu, đủ kiểu và những khóm lan khô, cây trầm dựng nơi góc vẫn còn nguyên vẹn. Người cao bước tới bên giá súng săn đã gỉ sét, người thấp cầm lên tay ngắm nghía rồi bỏ lại chỗ cũ. Người cao bước tới tủ áo, mở cánh cửa, tiếng kêu nghe khô khan. Một bộ quần áo ngủ còn treo trên giá nguyên vẹn. Mùi ẩm mốc đầy trong gian nhà, người cao động vào bộ quần áo, với ý định gỡ ra thì vải mục rớt xuống tan ra như một đống giẻ vụn, người thấp kêu lên, người cao sững sờ, hai người tưởng như mình đang sống trong một giấc mơ kinh dị, hay đang ở trong một ngôi nhà ma quái… Người cao bước tới mở hai cái chum lớn thi thấy lương khô vẫn còn đầy… - Anh ấy đi đâu rồi, đằng nào thì mình cũng phải ở lại đây đêm nay, mình phải kiếm cái ăn đã, tối đến trời lạnh lắm, phải nhóm lửa lên… Người thấp nghe theo, người cao bước tới góc nhà chất củi vào nơi hỏa lò rồi mồi lửa, gỗ thông bắt cháy nhanh chóng, trong chốc lát căn phòng sáng rực , hơi ấm tỏa ra đánh tan khí cao kéo hai chiếc ghế dựa thấp lại gần bên hỏa lò, trên khúc gỗ lớn vẫn còn lại chiếc bình hoa bằng sành màu gụ, không có một bông hoa, người cao đứng lên trở ra vườn hái một bông hồng vào cắm lên đó. Bông hồng dành cho công chúa. Người cao nhớ tới câu người xưa vẫn nói vào mỗi buổi sớm mai khi chiếc bình được thay nước và cắm vào một bông hoa mới, ngày nào cũng chỉ có một bông hồng độc nhất trong gian nhà. Bông hồng dành cho công chúa. Nhớ lại điều đó khiến người cao mỉm cười. Những miếng khoai ngô được sóc vào những chiếc que hơ lên than hồng, mùi thơm dễ chịu. Người thấp nói - Phải chi bây giờ có một bình rượu thì hay biết mấy, cái chum thịt rừng khô này thật là hấp dẫn. - Ý kiến thật hay, hy vọng rằng còn lại đâu đó một bình rượu cúc của chủ nhân. Vừa nói người cao vừa đứng lên tiến tới vách ván ngăn nhà ngoài với nhà trong, nơi đó có những thân cây vừa phải ghép liền với nhau, mỗi thân cây đều có khoét những khoảng trống, trong đó để những bình rượu bằng sành, mở hết bình này đến bình khác đều thấy nhẵn không còn mùi rượu nữa. Người cao nghĩ thầm chắc những bình đã được uống cạn trước khi lên đường. Sau rồi người cao không mở bình nữa, chỉ cầm lên lắc nhẹ rồi 8/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày bỏ xuống. Khi nhấc tới bình ở trên cao nơi khoảng giữa thì người đó kêu lên vẻ hoan hỉ - Có vậy chứ, trong gian nhà này có bao giờ hết rượu đâu. Cón một bình hoàng cúc đây. Mang lại bên đống lửa, người cao mở bình rượu, mùi thơm choáng ngợp cả gian nhà. - Đúng là hoàng cúc, đây là thứ mà chủ nhân thường dùng. Cầm bát sành phủi qua, người cao rót đưa cho người thấp - Chưa uống mà đã muốn say, anh có thấy vậy không ? Người thấp đưa bát rượu lên môi, xuýt xoa rồi đưa lại cho người bạn, đầu gật gật vẻ hài lòng - Quả là mỹ tửu… tôi có cảm tưởng rằng chính anh là chủ nhân ngôi nhà này. Kiếm ở đâu ra mà có thứ rượu lạ vậy… - Chưa phải là một đâu, ở đây còn nhiều thứ nữa, nhưng chừng đều đã cạn, chủ nhân lúc trước nói với tôi có trên một trăm thứ rượu khác nhau, nhưng đâu phải rượu nào ai uống cũng được, phải tùy tuổi tác, tùy người nữa, bọn mình thì chỉ nên uống tới hoàng cúc , hồng ngọc, lệ lan là cùng, còn những thứ bạch thảo, quỳnh vân thì bọn mình chưa đáng để uống… chủ nhân nói với tôi muốn chuyện uống rượu phải được nâng lên như một thứ tửu đạo, ngày trước tôi được uống một ly nhỏ bạch thảo mà cơn say kéo dài trong bảy ngày, một cơn say thần tiên siêu thoát, rượu được cất bằng một thứ cỏ trắng lấy trên một ngọn núi cao phía trong rừng sâu, chủ nhân cũng cho tôi một nắm cỏ này, mùi thơm, cọng lớn hơn que tăm có những đốt, thân và lá trắng như ngó, bỏ vào miệng nhai có chút chất ngọt mát, những cỏ ấy mọc dưới những khe đá, phải mất nhiều công phu mới ủ và cất được thành rượu, điều này tôi không biết gì hết…Trong những thứ rượu dễ cất nhất là hoàng cúc, nhưng chủ nhân cũng khó khăn trong việc chọn lựa hoa trong khi ủ men, bỏ ngọn đồi này, qua một khe nước, qua một ngọn đồi nữa chúng ta sẽ tới một khu đất khô cằn, khí hậu nóng hẳn, ở đó là một cánh đồng cúc vàng rộng mênh mông, khi muốn cất rượu hoàng cúc chủ nhân chuẩn bị khi mùa nắng bắt đầu, vào giữa mùa khi đất đã khô, vào buổi sáng tinh mơ chủ nhân tới đó chọn những bông hoa cúc mới hé nhụy trong đêm mà hái, công việc hái cúc phải hoàn tất trước khi có ánh nắng mặt trời, như thế hương cúc còn nguyên, ong và bướm chưa hề hút nhụy… Anh thấy đó, cái gì mà không là công phu,thực sự tôi chưa đến tuổi, không đáng mặt để nói về rượu, cái gì cũng có cái nghệ thuật, cái đạo của nó… 9/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Tiếc thay, anh ấy nếu còn ở đây thì vui biết bao, cũng đáng tiếc cho riêng anh nữa. Người thấp đưa một miếng cá khô nướng cho bạn, anh ta lắc đầu - Hoàng cúc là phải uống suông, không thì nhấm chút trái cây, hay mấy cành hoa hồng là phải phép nhất, rượu này không phải để uống với cá thịt, có vậy mới giữ được cái hương thơm tinh khiết của nó… - Tôi còn trần tục lắm, không thể theo anh, tôi vẫn nóng lòng muốn biết về chủ nhân Đồi Hồng và căn nhà này ? - Tôi biết anh thắc mắc. Thực ra thì cũng không có gì. Tôi xin gọi người đó là anh cả. Anh ấy hơn tôi trên ba chục tuổi, như vậy tức là mình có thể coi như một người già, nhưng thật ra thì anh ấy còn trẻ, còn hăng hái say mê hơn chúng mình nhiều, sau những mưu toan ngày đó anh ấy trốn vào trong này cùng với một số đồng chí, nhưng chỉ được một thời gian mọi người đều bỏ đi vì không đồng chính kiến, anh ấy thì nói phải chờ đợi, phải tu luyện đã, mọi người thì nóng ruột, anh ấy cho thời cơ chưa đến nên nhất định không chịu bỏ khu rừng, trong số những người bỏ đi đó có ông thân sinh ra tôi, khi ấy ai cũng cho anh ấy là một tên gàn dở… Nhưng cuối cùng lại những người bỏ anh ấy mà đi đều chết chẳng còn một ai trở về, tất cả đều thất bại, mỗi lần được tin một người bạn chết anh ấy lại nấu một vò rượu rồi hạ thổ ở ven Đồi Hồng, ông thân tôi là người còn lại cuối cùng sau những thất bại, cha tôi quyết định trở vào trong này và mang theo tôi, chính vì đó mà tôi được biết nơi này, nhưng sau đó cha tôi thấy sức mình đã yếu, nghĩ tới người vợ hiền ở nhà, chết trong núi không đáng nên đã trở về quê, một năm sau , ông thân tôi qua đời. Thu xếp công việc tôi trở lại trong này với người bạn của cha tôi theo như lời giối giăng… Vào tới nơi ông không cho tôi gọi là bác hay cha, ông muốn tôi là em, ông nói ông còn muốn trẻ và muốn tôi coi ông như một người anh cả bởi vì chúng ta phải làm việc với nhau. Không được bao lâu anh ấy dường như quên đi những mộng tưởng ngày trẻ, anh ấy mải vui với Đồi Hồng, với những hoa cỏ kỳ lạ, mải vui với thiên nhiên, thú rừng khiến ông không còn nghĩ tới chuyện dời khỏi rừng sâu…Tôi chờ đợi quá lâu, không chịu đựng được nữa nên xin pháp ra đi. Tôi còn nhớ như hôm qua đây vào đêm cuối cùng tôi cũng ngồi với anh ấy như thế này và những vò rượu cạn. Anh ấy đã khóc nhưng không nói gì với tôi hết… Có điều tôi hiểu phần nào những u uẩn trong lòng anh… Những khẩu súng được lau mỗi ngày, bông hồng đó cắm trong chiếc bình mỗi sớm mai, đôi mắt sáng lên khi nghe rừng xanh chuyển động…Tôi cũng còn nhớ buổi chiều mưa nghe tiếng nước đổ từ trên núi xuống, chúng tôi cùng chạy ra nhìn khối nước bứt khỏi núi tràn xuống, xối chảy trên dòng suối soi băng đi một bên Đồi Hồng mang theo những vò rượu đã hạ thổ đánh dấu cái chết của những người bạn… Hôm đó chúng tôi tưởng cũng bị nước cuốn 10/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày trôi… Một mảng núi lở khiến nước tràn xuống tạo thành dòng suối mới… Trong cảnh ấy anh ấy cũng đã khóc, mọi điều đều tan, tan không để lại chút gì khi trời muốn như vậy… Chừng như đến một lúc nào người ta cảm thông được với tuyệt đối… Tôi nghĩ có lẽ vì vậy anh ấy đã từ chối mọi điều sau chót… mỗi lúc anh ấy một yêu hoa hồng hơn, ngọn đồi vì thế được chăm sóc một cách đặc biệt. Khi tôi theo cha tôi vào đây thì đồi vẫn chỉ có một ít khóm, nhưng đến khi trở lại thì đã nhiều, sau đó trong vòng mấy năm liền anh ấy dành hết cả thì giờ cho việc đốn những cây rừng, chiết trồng những cây hồng mới, và trước khi tôi đi một năm thì cả ngọn đồi chỉ còn lại hoa hồng và anh ấy đặt tên là Đồi Hồng… Sau đó anh ấy ham mê theo đuổi thú rừng, trong những cuộc săn đuổi ấy tạo thêm thú tìm lan và những loài hoa lạ, nhưng chỉ thêm vào mà không lấy đó làm chính, hoa hồng vẫn là giống hoa anh ấy yêu quý nhất, vì hoa hồng đối với anh ấy là một kỷ niệm không thể quên, một nàng công chúa… Người cao nói thao thao không ngừng, giọng kể đầy say mê quyến rũ, nhưng mỗi lúc chừng như một làm cho người bạn bị lôi cuốn vào câu chuyện nhiều hơn, người thấp hỏi - Chắc chủ nhân yêu một giai nhân tên Hồng… Tôi nghĩ… Chợt tiếng cọp hú vang lên, hai người chợt ngừng lại,người thấp tái mặt đi, người cao nhổm người lên, tiếng hú nghe rợn như tiếng ma quỷ và mỗi lúc một như gần lại. Hai người lặng im ngó nhau, mùi hôi thối theo gió đưa vào trong căn nhà, người cao nói nhỏ - Có lẽ con hổ bạch đã trở lại thung lũng… Giọng nói người cao hơi run, một lúc lâu người cao mới rón rén đứng lên đi ra phía nhà ngoài, người thấp cũng theo ra, hai người đứng ép vào khung cửa nhìn ra Đồi Hồng, ngoài đó không khí trắng như sữa, chừng như trên lớp mây đục trắng có ánh trăng chiếu xuống, Đồi Hồng mang vẻ kỳ bí thơ mộng, khung cảnh của một chốn non tiên cũng chỉ đến thế, cả hai người cùng như nhịn thở khi nhận ra một bóng trắng đang nhảy giữa những luống hồng, bóng trắng có lúc vọt cao, có lúc chúi xuống quần nát những khóm hồng cùng với tiếng hú ghê rợn… Sau cùng tiếng hú dội vang và bóng trắng nhảy biến mất về phía con suối trả lại sự yên tĩnh cho đêm vắng, mùi hôi thối cũng tan đi… Người cao vừa trở vào vừa nói - Đúng là con hổ bạch, tiếc là anh ấy không còn lại ở đây, trong hai năm liền khi tôi còn ở đây anh ấy đã lùng kiếm và chờ đợi nó. Ngồi xuống bên hỏa lò, cho thêm củi, bỏ bình rượu cúc vào bên bếp than cho nóng, người cao chỉ tay chung quanh vách 11/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Hồi tôi mới trở lại chung quanh ván này đầy những đầu thú, không thiếu một thứ gì, từ hổ, hươu, nai, rắn…anh ấy bắn được mang về lấy thịt phơi khô, đầu và da con nào đẹp thì ướp thuốc phơi khô hoặc sấy rồi trưng làm cảnh, ai cũng tưởng lạc giữa những thú rừng, nhưng một lần đi săn anh ấy bắt gặp một con hổ trắng,anh ấy bắn trật, nó chạy thoát sau khi xuýt vồ được anh ấy, từ đó anh ấy không thèm săn thú nhỏ nữa, anh ấy trở về đốt hết những đầu và da thú trong nhà, mỗi ngày vác súng ra đi đều nói phải hạ cho bằng được con hổ bạch đó… Mình phải săn thú lớn, không thể phí công sức săn thú nhỏ…Nhưng sau đó có những lần dò theo bước chân cả tuần, lùng kiếm chờ đợi anh ấy đều không gặp lại nó. Tôi còn nhớ một đêm ngửi thấy mùi hôi thối, anh ấy bật dậy, vác súng ra ngoài, tôi ở trong chờ đợi, anh ấy lần mò hết một đêm một ngày, nhưng sau thì trở về thất vọng, không phải nó, anh ấy nói vậy với tất cả sự tiếc rẻ, ta gặp một con cũng khá, hạ được nhưng thấy thật uổng công…có lần đi với anh ấy, gặp những thú rừng khác thật ngon anh ấy cũng không thèm bắn, anh ấy nói chờ đợi cho bọn nó lớn đã, chỉ cần hạ được con hổ trắng là ta bỏ rừng mà về, nhưng cho tới lúc tôi đi khỏi anh ấy vẫn không gặp nó, có lẽ đây là lúc nó trở về, tiếc thay tôi không phải là một tay súng giỏi, và có được một lòng kiêu hãnh tự tin như anh ấy… Uống cạn bát rượu nóng, người cao ngả người ra lưng ghế, người thấp cởi bỏ chiếc áo ngoài, hơi ấm làm cho không khí lạnh trở thành thân mật , khi vắt cái áo lưng ghế một tiếng động vang lên, người cao nhỏm người lên, nhíu mày nhìn khẩu súng lục rơi trên sàn gỗ - Anh có khẩu súng ấy hồi nào ? Người thấp hơi cuống, ngập ngừng nhặt khẩu súng lên tay, giọng nói xúc động - Chắc anh nghĩ tại sao tôi đã hành động nhự vậy? Trước đó tôi đã thề với trời đất rồi, nhưng thực ra cũng là tại nó đến số vậy thôi… - Vậy anh giết nó lúc nào ? Người thấp ngập ngừng một lúc mới nói tiếp - Khuya trước đêm mình lên đường, vả lại anh cũng hiểu cho tôi, nếu không thanh toán nó thì tôi không thể đi bình yên được, thêm nữa tôi cần vật hộ thân và một mối thù tôi phải trả, cái chết của mẹ tôi… Người bạn thở dài không nói nữa. Ngoài vườn cây tiếng gió rít từng hồi, trong đó nghe như cả tiếng rừng cây lay động. 12/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Anh có lẽ cũng không biết chuyện đó, lúc trước nó đi với giặc hại gia đình tôi, khi cha tôi chết ông nói chính nó đã báo cho giặc biết về những hoạt động của ông, không có bằng cớ khiến bọn nó tra tấn cho mẹ tôi đến chết. Cách mạng nổi lên nó tự đứng vào hàng ngũ như kẻ ở hàng đầu, nó biết tôi hoạt động chống lại nên vẫn tìm cách theo dõi, tôi nghĩ không nên chờ nếu như muốn những người còn ở lại được yên. Tôi phải ra tay, không ngờ hắn có súng…Anh biết? - Sao không, nó tưởng tôi ở trong đoàn thật sự nên nói với tôi phải coi chừng anh như một tên phản động… Chuyện ấy cũng qua, có điều tôi vẫn không muốn tay mình phải nhúng vào máu. Có lẽ đó là điều tôi chịu ảnh hưởng của anh cả. Vò rượu đã cạn, người cao lận mò tìm vò khác, nhưng lắc hoài vẫn gặp những vò không, khi nhắc đến chiếc bình vuông thì người cao nghe như có vật gì để ở trong, thực ra đây không phải là một cái bình mà như một cái phạn vuông vức, trên được đậy lại bằng một viên gạch, mở ra người cao ngạc nhiên thấy cuốn vở bìa cứng ở trong, cầm lên tay với tất cả vui mừng, người cao nói với bạn - Cuốn sách anh cả tôi viết trong nhiều năm, hồi đó anh dành nhiều thì giờ cho những suy ngẫm của anh, anh viết thật khó khăn, mong cuốn sách đã được hoàn tất trong thời gian tôi đi khỏi. Nói xong người cao mở cuốn sách ra dưới ánh lửa, nhưng mở mãi cũng chỉ thấy những trang giấy trắng, ở một đôi trang có ép những chiếc lá màu lạ mắt, một ít hoa và mấy cánh bướm màu sặc sỡ, cuốn vở đã bị xé đi nhiều trang, chỉ còn lại một ít tờ. Người cao mở cuốn vở với tất cả vẻ thận trọng nhưng không khỏi ngạc nhiên, không tìm thấy một chữ nào trên những trang giấy ấy, bỏ tập vở xuống với vẻ thất vọng vậy những trang đã viết bỏ đi đâu, như vậy là công việc ấy cũng không hoàn tất được. Những cánh hoa, cánh lá, cánh bướm khô là thế nào… Người cao lại lục lọi, trước nhất là nơi những chiếc sạp, với hy vọng tìm thấy một điều gì để lại, nhưng tuyệt nhiên không thấy gì ngoài một chiếc trong đó có để một hòn đá đen nhánh. Sau cùng tìm thấy một bình hồng ngọc, mùi rượu siêu thoát, men gần như đã không còn gì, uống vào mới bắt đầu nhạt môi, chỉ thấy thoảng mùi thơm nhưng men rượu sau đó ngấm dần, chừng như đó là bình rượu đã được để quá lâu đã khiến mất đi vẻ rượu bình thường trần tục… Thất vọng người cao ngồi ngả lưng ra sau ghế nhìn ánh lửa bập bùng trong hỏa lò. Men rượu như đưa người vào một cuộc viễn du thoát tục… Người thấp nói - Tôi không biết gì về người anh cả của anh, nhưng qua thứ rượu hoàng cúc và hồng lệ mà tôi được uống đây thì ông ta phải là một tay say 13/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày mê men nồng, sắc đẹp…chính những cái đó đã khiến ông bỏ cuộc…Tiếc thay một người như thế mà không thể đổi cho mình một thứ rượu khác… - Đổi cho mình một thứ rượu khác… Tôi không nghĩ như anh, cần gì phải đổi một thứ rượu khác, anh cả tôi đã có lần nói với tôi. Cần gì phải rượu mới say, có khi uống một hớp nước suối cũng nghe thấy như mình có thể say đến muôn ngàn năm… Với cái nhìn của tôi thì ông đã uống nhiều thứ quá, với đầy những đam mê và kiêu hãnh ông đã uống tới cùng tận, nhưng ông đã không chết được trong những cơn say não nùng đó, trong say ông vẫn nhận biết, và chính vì thế ông đã thất bại… Đó có khi cũng chỉ là một cái nhìn nhiều hơn là một sự thật, vì chính lúc này đây tôi cũng như anh không biết ông còn sống hay đã chết, trong vòng hơn năm năm qua và những giây phút này ông ra sao. Có điều ông khuyên tôi hãy uống cho hết, cho tới tận cùng, hãy say mê cho tới chung cuộc có thể chết đi êm đềm, nhưng phải tin ngay đó mình có thể phục sinh, sống lại trong một say mê mới hoàn toàn tinh khôi như mình chưa bao giờ được sống…phải tin và sống như vậy, một lúc phục sinh…Một phục sinh mới cho tôi, đó là ước mơ của tôi, và tôi tin mình sẽ có được… - Chừng như còn nhiều điều về cố nhân mà anh không muốn nói với tôi, tại sao vậy ? - Không phải thế, chính ra thì tôi cũng chẳng được biết gì. Như tôi đã nói với anh đó, anh cả bằng tuổi với cha tôi, ông là một người hoạt động với những mưu đồ nào đó, sau ông vào trong này, tôi sống với ông sáu năm, tôi bỏ ông đi cho đến nay đã năm năm hơn…Ngày trở lại thì không còn người xưa nữa. Như tôi đã kể ông yêu hoa hồng, thích săn thú lớn, cái ám ảnh về con hổ bạch trong những ngày sau đó cuốn hút ông. Ngoài thú cất rượu để uống, trồng hoa, tìm lan, săn thú cũng có lúc ông ngồi đánh cờ ngoài hiên Ngạo Thiên, thua được gì ông cũng cười, mỗi lần thế ông nói với tôi đáng ngạo ông trời lắm, cũng muốn lập ngôn, nhưng có lẽ công việc đó ông không hoàn thành dược, tất cả với ông chừng như đều thất bại. Nhưng ông nói với tôi, ông hài lòng một điều… - Điều gì ? Người cao nói trong giọng ngà ngà ; giọng nói của người còn ở trong cơn mơ - Bông hồng dành cho công chúa… - Bông hồng cho công chúa, tôi không hiểu gì hết. - Chính tôi cũng không được rõ. Nhưng theo như cha tôi thì đó là một câu chuyện tình. 14/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Ông ấy cũng có chuyện tình nữa, thật tôi không hiểu được. Hình dung về ông tôi nghĩ đó là một tay giang hồ, dũng mãnh, giàu nghị lực… - Điều đó thì đúng nhưng anh nghĩ những người đó không yêu sao, nếu anh nghĩ vậy thì anh nhầm, những kẻ như anh nói đó đã không say mê gì thì thôi, nhưng đã say mê thì không phải chuyện chơi, xẻ núi, lấp sông, vượt biển họ cũng không thay lòng đổi dạ được, những người đó bao giờ cũng có những ham mê để chết… - Tôi không hiểu chút gì. - Tôi nhớ lại những năm sống với ông, mỗi buổi sớm mai thì thấy ông bưng bình hoa ra ngoài, bỏ bông hồng cũ đi, tôi trông ông có vẻ gì buồn, có lần ông nói tiếc thay, hoa rồi phải tàn, ta thì không muốn thấy hoa tàn… Ông thay nước trong bình, dạo quanh những cây hồng tìm một bông hàm tiếu trịnh trọng ngắt lấy cắm vào trong bình rồi mang vào trong phòng, sau đó là buổi uống trà của ông, vừa uống trà, vừa ngắm hoa, trông ông những lúc đó như một đạo sĩ. Theo như cha tôi nói thì trước khi bước chân vào cuộc phiêu lưu ông đã có một mối tình, những tưởng một mai khi trở lại cuộc sống sum họp sẽ có, nhưng sau bao nhiêu gắn bó, chờ đợi người con gái kia chẳng được sum họp với người tình…Nàng qua đời trong mòn mỏi, ông được tin lặng người đi cho những dòng lệ chảy trên má, lúc đó cha tôi còn ở bên ông, sau này nhớ lại, nghĩ tới người vợ chưa chung chăn gối ấy, như một thủy chung, ông dành bông hồng cho người khuất, ông không dùng hoa khác vì nàng vốn yêu hoa hồng… ông chưa bao giờ thổ lộ những điều đó, nhưng theo tôi có lẽ cũng chỉ có vậy, tôi còn nhớ một điều ông nói trời phụ ta, ta cười ngạo trời, bạn bè phụ ta, ta buồn ta, con đường ta đi không hết, ta giận ta…Chỉ có một người chung thủy với ta thì ta không đền đáp được… Đó là mối hận lớn duy nhất không biết bao giờ cho nguôi… Bông hồng dành cho công chúa. Tôi nghĩ đó là điều ông dành cho mối hận trong lòng…và đó cũng là cái dĩ vãng duy nhất cháy sáng trong lòng ông… Nhưng sau chót ông đã kết thúc đời ông ra sao, thật tình ông vẫn là niềm bí ẩn… Ngọn lửa hồng và men rượu đã ru hai người vào một giấc ngủ ngắn ngủi lúc nữa đêm về sáng. Khi hai người thức dậy thì trời đã sáng tỏ, mây trong thung lũng đã tan để lại một bầu trời trong xanh, hai người bước ra ngoài thay nước rồi tìm một bông hồng hàm tiếu cắm vào chiếc bình. Hai người ngạc nhiên nhìn những luống hồng bị quần nát bởi con hổ bạch trong đêm, những cánh hoa đỏ giập nát đầy trên mặt đất như những giọt máu đào… Tiếng hổ hú trong rừng trước mặt bỗng vang lên, một đàn chim cánh lớn từ trong những ngọn cây bay lên rợp cả một vùng trời. Người cao chỉ 15/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày tay về hướng đó - Con hổ bạch vẫn còn quanh quẩn trong đó, sao nó không trở lại vào những năm trước. Nắng lên cao, hơi lạnh của rừng đã giảm, hai người đi vòng quanh căn nhà, khu Đồi Hồng rồi theo hướng mặt trời mà đi. Khi qua những khóm hồng đỏ thắm người cao ngắt theo một bông, lên đỉnh đồi người cao ngừng lại, vứt bông hoa theo chiều gió xuống thung lũng… Rồi ở đó buổi chiều sẽ đưa mây về bao phủ, và còn lại căn nhà. Đồi Hồng, suối Hoàng Mai, những bình rượu , hiên Ngạo Thiên và một con hổ bạch... 1969 Chuyến trở về sau cùng Người tài xế mở mắt nhìn lên kính xe, ánh nắng chói lòa chiếu từ trên mái nhà tôn xuống. Tiếng động buổi sáng rì rầm trong khu trại lính. Anh ta trở dậy, những khớp xương mỏi nhừ, với tay gấp chiếc màn nhỏ lại, mở cửa xe, ngồi trước tay lái. Một con gà đang thơ thẩn kiếm ăn trước mũi xe bỗng đập cánh vươn cao cổ gáy, tiếng gáy nhỏ và yếu, lạc lõng. Người tài xế xuống xe, với chiếc khăn mặt nhỏ bẩn thỉu vắt nơi tay lái xuống, nhìn quanh quất, anh tiến lại chiếc vòi nước nơi phía gần tường cao với những hàng dây thép bao phía dưới, chăng phía trên, anh ta bỏ đầu vào và mở nước cho nước chảy sối sả. Anh ta háp miệng lấy một ngụm nước đầy rồi ngửa cổ súc, tiếng nước kêu sục sục trong miệng trước khi anh ta nhổ mạnh nước ra xa. Lau mặt, vuốt tay lên mái tóc, anh ta trở lại leo lên lòng xe đánh thức người bạn đồng hành. Người lính nằm dài trên băng, quấn kín người bằng chiếc màn nhỏ, quần áo và giày vẫn còn ở trên người, chiếc mũ sắt và khẩu súng ở ngay bên cạnh. - Dậy đi thôi. Người lính nằm vùng dậy, dụi mắt nhìn chung quanh lơ đãng trong khi thu màn bỏ vào chiếc ba- lô. Người tài xế kéo ngay lại chiếc quốc kỳ xô lệch trên cỗ quan tài để giữa lòng xe, lá cờ ngắn không đủ che hết cỗ quan tài gỗ, đứng lên, người lính đu người nhảy xuống, chiếc quần vướng vào vòng hoa để bên kéo theo xuống, vòng hoa đã héo để phơi ra chiếc khung làm bằng dây kẽm gai, mấy bông hoa giấy đỏ, hoa dại trắng rơi vãi trên nền đất bột. - Mẹ, vòng hoa bằng kẽm gai nữa. Người tài xế ngồi yên trên băng ghế lấy gói thuốc ra rút một điếu châm hút. Người lính bỏ chiếc vòng hoa trở lên xe. Quà tặng của tiểu khu gởi cho 16/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày người chết, mỗi lần có chiến sĩ hy sinh, nơi phòng tâm lý chiến lại có một công tác, lính được phái đi lấy về những thứ hoa tạp nhạp, bất cứ hoa gì và xúm nhau lại cố gắng làm lấy một vòng hoa tang , những hoa dại mọc trên những bờ tường, nơi hàng rào, mấy bông vạn thọ trong sân tiểu khu, mấy bông sứ trong sân ngôi chùa bỏ hoang ở ngài ven thị trấn. để có được một vòng hoa không phải là một công việc dễ dàng trong tỉnh lỵ nhỏ bé nghèo nàn. - Đi chưa ? Người lính đứng dưới sân hỏi lên. Người tài xế nhìn xuống khói thuốc thở ra trên hai lỗ mũi - Đi cho rồi, trưa có thể về tới nơi, để kiếm chút xăng nhớt đã chứ. Sao không táng nó trên đó cho rồi, chết là hết ,bày đặt làm gì. - Đừng nói thế, nó nghe thấy nó buồn. - Chết rồi còn biết buồn ? - Sao lại không ? - Thôi đi rửa mặt còn kiếm chút cà phê. Người lính đi khỏi, người tài xế ngồi yên, chút sau anh ta lấy bao nhang thắp mấy nén cắm vào chiếc ống bơ để bên cạnh chiếc quan tài. Sinh hoạt trong tiểu khu đã rộn rịp hơn, người ra người vào mỗi lúc một đông, nơi khoảng trống phía gần cửa sổ xe cộ đã gần kín, một vài người đi ngang qua xe ngó lên rồi đi tiếp, mọi người như không chút ngạc nhiên với chiếc quan tài trong lòng xe. Người lính đã trở lại với gương mặt sáng sủa hơn. Người tài xế nhảy xuống xe. Hai người đi về phía câu lạc bộ, nơi đây ồn ào khác hẳn với không khí buổi tối hôm trước. Người tài xế gọi một tô hủ tiếu, người lính ngần ngừ một lúc rồi kêu một ly cà-phê sữa. Khi đứa nhỏ mang cà-phê và hủ tiếu lại, người lính giữ lấy vai đứa nhỏ - Đây có bán đế không nhỏ. - Có Đứa nhỏ nói nhanh và như còn đang cố gắng ghi nhớ những tiếng gọi khác đang vang lên. - Đong cho một xị nghe. Người lính đưa cho đức nhỏ cái chai không, đứa nhỏ chạy đi, người tài xế bẻ thêm bánh mì nhúng vào ăn chung với hủ tiếu, người lính nhẩn 17/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày nha, chậm chạp uống từng ngụm nhỏ cà-phê trong khi hút từng hơi thuốc lá ngắn. - Liệu chiều nay có xong không, kiếm không ra nhà thì chết bỏ đời đó nghe. - Rỡn hoài, có địa chỉ đường hoàng, tao biết ấp đó mà. - Ờ, cứ yên trí đi. Cái thằng chết rồi còn làm khổ thằng sống. Tao đã làm sẵn một chúc thư rồi, nếu chết là cứ việc đào một cái hố ngay bên cạnh mà bỏ xuống, khỏe không, rồi báo cho gia đình biết là được, mang về làm gì cho khổ, khóc mếu, tốn tiền bạc ma chay, mày nghĩ coi… - Chuyện của mày thì khỏe rồi, còn của thằng khác thì mặc xác người ta. Sinh hoạt chộn rộn chung quanh khiến câu chuyện có những ngắt quãng. Gõ chiếc muỗng vào thành tô, tiếng kêu lớn, đứa nhỏ tới mang theo xị đế, nó tính tiền nhanh chóng và thu dọn bàn cho những người khác. Ra khỏi câu lạc bộ, tới sân, người tài xế la lên - Xe đâu mất rồi. Người lính nhìn quanh. Hai người rảo bước, khi ra tới ngoài mới thấy một toán lính đang cố gắng đẩy chiếc xe ra phía sau tiểu khu. - Đẩy đi đâu vậy, bọn nó khùng hả ? Khi tới nơi, một người lính la - Mấy cha nội đi đâu bỏ cái xác này cho ai đây. Sao không mang đi cho rồi. - Đi đây. Người tài xế nhẩn nha như không chút bận tâm tới những người chung quanh. Họ cho thấy một ông lớn sắp tới tiểu khu, cái xe để không phải chỗ nên được lệnh dời đi. Người lính ậm ừ - Tưởng ai tới đánh cắp chiếc quan tài thì bọn này đỡ quá. - Đánh cắp để làm mắm à. Người tài xế nổ máy, người lính ngồi phía sau cầm lấy súng lên tay, báng bỏ xuống sàn xe, đội mũ sắt lên đầu. Anh ta thấy những que hương cháy gần hết. Những lượng khói mờ nhạt loãng tan nhanh chóng vào không khí. Chiếc xe lùi lại rồi chạy trở ra cổng tiểu khu. Người lính gác 18/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày bồng súng chào nghiêm chỉnh. Người lính ngồi trên xe mỉm cười, giơ tay vẫy thay một lời chào. Nắng sáng trên lá quốc kỳ, bầu trời trong, con đường lớn duy nhất của tỉnh lỵ, không có một bóng cây, những cột đèn, dây điện chạy dọc theo hai hè phố như hai bờ cao của một con kinh. Sinh hoạt nhạt nhẽo trong buổi sáng, đường vắng, xe chạy mỗi lúc một nhanh. Khi xe chạy tới đầu quốc lộ, người lính thấy đôi mí mắt như trĩu xuống với cơn buồn ngủ. Gió thổi mạnh làm mép lá quốc kỳ tung bay, những cây hương cháy nhanh hơn và gió không để lại một chút dấu vết của làn khói nhang nhẹ mỏng . Bây giờ nó đã chết. Thật kỳ. Nó ít nói, nó không uống rượu. Ngồi với anh em, mọi người uống đế, uống bia, nó kêu một ly trà đá, một chai nước ngọt, mọi người biết ý nó rồi nên không bao giờ làm phiền nó nữa. Lúc trước, có những lần như thế, bạn bè ép nó, nó mỉm cười tỉnh bơ đứng lên đi khỏi. Có đứa nói kiếp trước nó chết vì rượu nên kiếp này ngửi thấy rượu đã thấy kinh hoàng. Có đứa nói nó là ma rượu. Ai nói gì nó cũng nghe. Sau khi đi kích đêm, trên đường trở về, một phát súng bắn sẻ từ ngực trổ ra lưng ngã nằm xoài chết ngay trên mép cỏ xanh còn ướt sủng sương đêm. Đưa về tiểu khu nhập quan, người ta lục lọi tìm kiếm địa chỉ của nó trước khi đưa tiễn nó lên xe trở về. Nó như trăm nghìn những người khác ở trong cuộc chiến, đến tuổi động viên, theo lệnh gọi nhập ngũ và ra trận. Rồi chết. Xe chạy khỏi tiểu khu lúc hơn mười giờ, trời nắng đầy trên những ngọn cây, đáng lẽ có một tiểu đội đưa nó về nhưng tình hình không yên, chiếc xe chỉ có một người lính, một người tài xế. Từ trên cao nguyên, theo quốc lộ trở về, sẩm tối thì xe chạy được hai phần ba đường. người tài xế cho xe chạy tới tiểu khu, trình giấy xin ngủ tạm chờ sáng hôm sau đi nốt đoạn đường còn lại. Xe chạy mỗi lúc một nhanh hơn, người lính bỏ băng ghế, đi lên phía trên, ngồi xuống lòng xe, phía đầu quan tài, ngả lưng dựa vào khoảng ngăn của thùng xe với chỗ người tài xế ngồi. Cơn buồn ngủ ập đến. Những trạm kiểm soát dọc đường buộc chiếc xe ngừng lại, người tài xế ngừng xe xuống trình giấy. Tới trạm trước khi xe chạy giữa khu rừng cao su để qua một cây cầu xi măng, người tài xế chợt nhìn lên xe và không thấy người lính. Anh ta đến bên, trèo lên, ngó vào, người lính ôm súng ngủ gật. Người tài xế mỉm cười. Người lính quân cảnh tò mò đi theo, trèo lên ngó vào, - Ngủ vậy mà thằng chết nó dậy thì hết đường chạy. Người lính mở mắt, đứng vội dậy, kéo lại mũ, cầm lấy súng. - Sướng nhỉ. 19/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Người lính không nói, đi trở ra phía ngoài ngồi nơi đầu băng ghế với vẻ nghiêm chỉnh. - Mơ ngủ hay sao vậy, ngồi xuống đi, ngồi thế này có khi ăn đạn cho xem. - Sao vậy ? Người tài xế vừa hỏi vừa nhìn quân cảnh - Xe đang chạy mà nếu thấy có người vẫy tay xin quá giang thì đừng có ngừng lại nghe, phóng cho nhanh mà chạy dù cho có đứa nào đứng ra giữa đường cũng vậy. Hôm trước có mấy con bị đi ngủ… Người quân cảnh cười cười vẻ thoải mái, không bận chút lo sợ. Người lính cười cười theo đưa một tay lên sờ ở gáy, ví dụ một viên đạn từ trong rừng nhắm vào đó. Người lính trở lại chỗ ngồi cũ. Người tài xế nói bâng quơ - Chết có số, đạn tránh người. - Thiệt không bạn ? Người quân cảnh vừa nói vừa vỗ tay lên vai người tài xế. Anh ta chỉ lên chiếc quan tài - Tên nào có phúc vậy ? - Phúc nữa ? - Sao không, biết mấy đứa không còn một miếng, như mắm… - Nó đi kích về thị bị hạ. - Thôi đi cho sớm chứ. Người quân cảnh vỗ mạnh tay nơi vai người tài xế rồi bỏ trở vào trạm kiểm soát. Người tài xế đứng nơi lề đường tiểu tiện rồi trở lại xe, dáng vẻ thong dong. Con đường còn lại, cây cầu xi măng, những tên lạ mặt nào. Anh ta nhìn theo con đường thẳng tắp trước mặt. Ngồi ngay ngắn trước tay lái, người tài xế lấy bao thuốc châm một điếu hút, khói thuốc un đầy trong lòng xe. Người lính ngồi phía sau chừng như nóng ruột khi không thấy xe chạy. Anh ta đứng lên, ngoài người về phía trước nhìn vào chỗ người tài xế ngồi - Ngủ hả, chạy cho rồi còn cà rịch cà tàng chi nữa ? 20/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Người tài xế cười nhe hai hàm răng vàng nghệ - Nghĩ ớn quá, lên đạn đi nghe. - Sợ chết hả ? - Tao sợ thằng nhỏ nó chết thêm lần nữa thì tội. - Không đâu, bọn mình… - Thôi đi cha, cho con sống với vợ con chứ… Người tài xế mở máy, tiếng máy vang động không khí im lặng. Người lính trở lại chỗ ngồi nhìn khói đen oằn oại phía sau xe. Vòng hoa đã héo rũ, tất cả chỉ còn phơi ra những gai kẽm. Anh ta đứng lên cầm lấy vòng hoa vứt xuống đường, chiếc vòng lăn đi một quãng, những cánh lá, cánh hoa vung vãi trước khi chiếc vòng đổ xuống nằm trên mặt đường. Người tài xế mở hết tốc độ, chiếc xe chạy nhanh trên quốc lộ vắng. Người lính ngồi dựa lưng không yên phải nhích lưng ra và một tay giữ lấy thành xe. Khi mặt trời lên giữa đầu thì chiếc xe vào tới thị trấn để dừng lại. Ghé đồn quân cảnh, trình sự vụ lệnh, gửi chiếc xe để đi ăn cơm trưa nơi một quán bên đường. người lính, người tài xế đều mang theo súng, ba lô, mũ sắt, dáng vẻ yên tâm, mỗi người mỗi đĩa cơm, người tài xế kêu một chai bia lớn uống chung. Uống hết người lính lêu thêm một chi nữa - Khỏe rồi, uống cho phấn khởi. Người lính cười. Người tài xế không nói cắm cúi ăn. Buổi trưa nóng bức, con đường đầy nghẹt xe cộ, khói và bụi mù mịt. Trong mắt nhìn, có lúc người lính thấy như lửa bật cháy và những hình người lay động yếu ớt, có lúc cong đi lung linh trong nắng lửa. - Nắng thế này chắc nó trương lên rồi. - Mới ba ngày ăn thua gì. - Thôi đi, nắng thế này mà nói, có khi hơi nó phá vỡ quan tài cho mà xem. - Bày đặt, hồi năm trước có lần tao chở tám thằng trên một xe, biết không, chết từ một tuần trước, thế mà chẳng sao hết. nước vàng chảy rỉ rả, có mùi, làm tao ăn không được nôn mửa một tuần, thế mà người ta vẫn ôm lấy mà lăn lộn khóc, ruột thịt đau đớn chừng đó, người ta chẳng biết kinh sợ nữa. Thằng này chết vậy là có phúc lắm. một mình một ngựa trở về thảnh 21/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày thơi… Chỉ khổ cho người sống. Cái số mình như phải đóng mãi vai trò của tử thần. - Cái gì ? Mình là tử thần ? - Ờ rồi coi, tao biết quá rồi. Tao vốn ớn cái trò mang quan tài về nhà, báo tin người chết… Mày tưởng tượng thử coi… - Chết thì mang về chứ có sao, họ phải cảm ơn mình chứ. Người tài xế cười ngất. - Mày là cái thứ gì không biết. Nhà người ta đang vui vẻ bỗng nhiên mình đưa đến một xác chết,hoặc đến báo tin một người chết. Như vậy không còn là tử thần à. Lúc gặp người ta cười nói, nghe mình nói xong người ta khóc mếu kêu gào, vậy mà thú vị lắm sao ? Người lính uống cạn ly bia rồi nhìn bạn - Ừ nhỉ, nếu bây giờ mình đang ở trong nhà, cười nói, có người tới báo tin em mình vừa chết, xác để trên xe… không được, không được… Vừa nói vừa lắc đầu, người tài xế đập tay lên đầu người bạn - Say rồi hả. - Đâu có, mình thiệt ngu. Trở lại đồn quân cảnh, người lính và bạn ngồi lên phía trước. Trưa nắng mỗi lúc một khó chịu - Đi chưa ? Người lính hỏi bạn, giọng ngái ngủ mệt nhọc, nói hết câu anh ta đã nhắm mắt lại - Trưa thế này vào nhà người ta kỳ. Thôi cho họ ngủ trưa đi đã. Người tài xế xuống xe, đóng cửa lại, anh ta đi về phía sau nhìn màu lá quốc kỳ rực rỡ dưới ánh nắng. Anh ta di vào hiên nhà, nơi chỗ ghế dài chừng như dành cho những người ngồi đợi, anh ta bỏ khuy áo, ngả người nằm xuống. Khi nghe tiếng còi xe vang bên tai, người tài xế trở dậy thì nắng đã hơi nghiêng xuống. Người lính ngồi trên xe giơ tay vẫy bạn. Người tài xế sửa lại quần áo trở lại ngồi trước tay lái 22/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Định giữ của thêm đến bao giờ đây. - Mệt quá, ngủ như chết. Thôi đi. Người lính trở lại sau xe, nhảy lên, đội mũ sắt, cầm súng, ngồi ngay ngắn. Xe ra khỏi đồn chạy vào đường phố. Chạy một quãng ngắn, người tài xế ghé vào lề đường, đứng lên nói với người bạn - Đưa cái địa chỉ đây. Người lính mở túi lấy ra một chiếc phong bì màu nâu trao cho người tài xế. - Chạy hết đường này đi, tới chỗ ngã tư quẹo tay mặt. - Làm như là thổ công không bằng. - Chứ sao. Nhớ là phải đi hết khu nghĩa địa rồi mới tới xóm này. Chà, cái ấp này nhà cửa cũng lộn tùng phèo ghê lắm… Người tài xế không nói, trở lại với tay lái, chuyến xe chạy theo con đường lớn ven đô. Những nhà cửa hai bên không đều, có những khu mới tân trang sầm uất, có những khu còn nguyên vẹn khung cảnh của một vùng ngoại ô, nhà thấp, mái ngói, một vài khóm tre, những tàn vú sữa, những chiếc sân đất và những hàng rào cây xanh thấp. Xe tới ngã tư thứ nhất, người tài xế cho xe quẹo. Con đường rộng, hai bên trơ trụi những mái nhà tôn thấp, không có lề đường, chạy một quãng thì qua khu nghĩa địa, một khoảng dài không có nhà cửa cho thấy hình ảnh khu vực ngoại ô. Khi tới đầu khu dân cư thì người tài xế ngừng xe lại, tắt máy, mở cửa xe bước xuống, anh ta ngó lên người bạn đồng hành đang đứng tì tay nơi thành xe - Xóm này đây. - Đi chút nữa đi, tới con ngõ lớn vào trong, chắc là ở trong chứ không phải ở ngoài này. Người tài xế lên xe cho chạy chậm, tay giữ vòng lái, mắt nhìn vào tấm biển số nhà. Tới đầu con ngõ đưa vào xóm thì xe ngừng lại. Người tài xế nhìn vào tấm bảng treo chi chít nơi chiếc cột cổng, đó là những biển quảng cáo, lời rao bán nhà, những mũi tên chỉ cho thấy những địa chỉ ở phía trong. Một vài người trong quán cóc đầu ngõ chỉ trỏ chiếc quan tài, mấy đứa nhỏ chạy ra, có đứa nghịch leo lên bánh xe, người lính phải la lớn đuổi chúng nhưng chúng vẫn bu quanh. Khi người tài xế bước vào quán cóc thì những người ngồi bỗng nhiên im lặng hết, ai cũng nhìn lên như chờ đợi điều gì. Người lính ngại ngần 23/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày đứng lại gần một người đàn ông đứng tuổi - Thưa bác có phải đây là ấp Tây Nhứt không ạ… - Phải, ấp Tây Nhứt… Con cái nhà nào đây, mọi người chung quanh bu lại, một người đàn bà nói giọng lo âu - Con cái nhà ai đây ? - Dạ Nguyễn Văn T. - Nguyễn Văn T nào cà ? Mọi người lặng im như cố nhớ tên một người nào đó của gia đình, quen biết hiện đi xa. - Nhà số mấy ? Một người đàn bà ngồi phía trong hỏi vọng ra giọng khô. Người lính vừa nhìn vào tờ giấy vừa đọc - Số 131 trên 32. - Thế thì xóm trên kia, đây là hẻm 30. Anh làm tôi hết hồn, thằng con tôi đi hơn tháng nay không có tin tức gì. Người đàn ông thở ra - Anh làm tôi nghẹt thở, thằng Hai nhà tôi nó mới viết thư về nói đánh hoài không về phép được. Không khí trong quán cóc bỗng trở lại vui vẻ, mọi người nói chuyện trở lại, câu chuyện quanh những người đi xa, những liên hệ và tỏ vẻ tội nghiệp cho gia đình nào là thân nhân của kẻ xấu số đang nằm kia. Mọi người cũng nhắc đi nhắc lại số nhà như cố gắng nhớ xem mình có liên hệ gì với con số đó. Người lính sau khi hỏi han về địa chỉ trở lại xe. Khi đứng ở đầu ngõ anh thấy những con mắt ngó nhìn. Có gia đình nào ngày nay không có con em trong quân đội. Có gia đình nào trong suốt mười năm nay không có những cái tang đau đớn. Hôm nào mình cũng ngã xuống, người lính bắt đầu bước lên xe, mở máy cho xe chạy về phía trước. Xe chạy khoảng hơn trăm thước thì tới đầu con ngõ lớn, con số 32 trên tấm bảng lớn treo cao. Người tài xế cho xe chạy vào, những người hai bên gõ thấy chiếc xe chở quan tài thì ra cửa đứng nhìn, những cánh tay giơ lên chỉ trỏ, người lính nhìn một bên, người tài xế nhìn một bên tìm kiếm một con số. Đi được một khoảng thì xe phải ngừng, một ngôi nhà đang xây cất chất đầy gạch nơi đường 24/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày hẻm khiến xe không đi được. Người tài xế đứng lên cao ngó lại người lính phía sau - Xuống tìm chút đi, ngõ này rồi, xe không vào được. Người lính nhảy xuống xe nhìn ngơ ngác hai bên đường. Một số người đã bu đến xe hỏi thăm người tài xế. Không khí im lặng, đe dọa như bỗng nhiên ập xuống con ngõ. Những mắt nhìn lo âu. Ai đó anh ? Những tiếng nhắc lại một tên người ghi trên tờ giấy. Những thở ra nhẹ nhõm. Người lính đã đi vào tới sâu trong ngõ. Người tài xế chợt nhận ra cánh tay vẫy của người bạn. - Thấy rồi. Người tài xế như nói với riêng mình. Thấy rồi, cả một gánh nặng như được trút xuống khỏi vai. Anh ta xuống xe đi lại phía người bạn. - Người đàn ông mặc chiếc quần cụt, áo mai-ô cáu bẩn đứng nơi cửa chờ đợi người tài xế. người lính nói - Đưa giấy coi nào, đúng số nhà này phải không ? Người tài xế vừa mở giấy vừa nhìn lên tấm bảng ghi số nhà - Đúng rồi, 131/32. Từ trong nhà một người đàn bà, một cô gái chạy ra với vẻ kinh hoàng. Người đàn bà hỏi - Gì vậy ông ? Thằng Út hả. - Út chết sao ba ? Mắt người con gái và người đàn bà đỏ lên như sắp khóc. - Không phải, đây là con của ông chủ nhà trước. - Trời ơi, tôi tưởng… Người đàn bà phác một vẻ mặt thoát nạn, người đàn ông nói giọng trầm tĩnh trước sự chờ đợi của hai người lính - Đúng số nhà đấy, nhưng nhà này người ta đi chỗ khác rồi, mới được hơn tháng. Tội chưa, ông ta có hai người con, đứa trước bị gãy chân, đứa này chết nữa… - Bác có biết ông ta đi ở đâu không ? 25/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Không, chúng tôi mới mua nhà này. Người tài xế nhìn bạn - Làm sao đây ? Người lính vẻ chán nản hiện ra, không nói năng anh ta đi trở ra khỏi ngõ, những người chung quanh ngó ngàng. Người tài xế cầm sắp giấy tờ đi theo ra. Trong con hẻm chưa lúc nào đông người như lúc đó, họ tụm lại bàn tán với nhau, có người tới gần xe nhìn lên cỗ quan tài phủ lá quốc kỳ với màu sắc rực rỡ. Người tài xế đứng nơi đầu xe nhìn người bạn đồng hành - Thật tổ chác, cái thằng chết tiệt này nó hành mình. Làm sao đây ? Người lính nói - Thì tìm chứ làm sao ? - Tìm ở đâu ? Người lính không nói thêm, anh ta trèo lên xe thò tay lấy xị đế để ở dưới chỗ ngồi mở ra tu một hơi dài… Người tài xế văng tục một mình, lấy bao thuốc ra châm hút, lúc sau anh ta trở lên chỗ ngồi mở máy cho xe lùi ra khỏi ngõ, hai bên hẻm nhiều người vẫn tụ tập, đám trẻ bám quanh xe khiến người tài xế phải bấm còi liên hồi… Uống hết xị đế người lính đứng lên vứt vỏ chai không xuống đường, tiếng vỡ khô sắc...Xe đã ra khỏi con ngõ, đậu sát vào lề, người tài xế mở cửa nói về phía sau - Bây giờ làm sao ? Người lính nói lớn - Muốn sao thì muốn, không biết. Người tài xế văng tục, nhìn bạn hơi mỉm cười - Kiếm chỗ nào cho họ vùi cả bọn cho xong.... 1972 Trở về và nhớ Trực nhìn xuống những ruộng lúa bị cháy đen và xăng chảy từ những ống ra ngoài, vết đen lớn tàn phá lúa. Ngày xa cũ thưa thớt vài bóng cây, xe chạy ngược vào thị trấn dần dần xa khỏi những đồi cỏ để vào đường phố 26/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày với hàng thông cao ướt nước, đường phố đầy bùn đỏ dơ bẩn và chỉ những chiếc xe nhà binh ướt sũng không ngừng, những dãy phố thấp, những hè phố không đều và những đường dốc. Xe ngừng lại nơi cửa nhà thờ, Trực bước xuống đeo ba lô trên vai, bây giờ hãy kiếm một tô mì, môt ly cà phê cho buổi sáng của mình. Bờ lề cao, ngôi quán Tàu mái nhà thấp, những thân cột sơn đỏ, trần thấp ám khói, tủ kính ngoài quầy hàng treo thịt quay, xá xíu người đàn bà Tàu cắt tóc ngắn ngồi từ trên cao nhìn xuống, những bàn vuông và tròn với ống đũa, những chai nước mắm, bình ớt đỏ… Cho một tô hủ tiếu, một phế nại. Đứa con gái không nói bước đi. Trực bỏ ba lô xuống một chiếc ghế, mặt bàn cáu bẩn và ấm nước như đã mốc. Nơi nào cũng chỉ có Tàu, Tàu… dù một thành phố lớn, một thị trấn có người ở, ở đó có hủ tiếu, cà phê dớ, từ đó những ngôi nhà lớn mọc lên và những cửa tiệm luộm thuộm. Thực tôi cũng không hiểu được. Chú tôi nói trong quân đội mấy lính Ba Tàu làm hỏa đầu quân thì ông quan nào cũng khoái hết, họ khôn ngoan , chịu khó và sợ chết nữa, nhưng nhà bếp thì họ không e sợ gì cả… Tôi đã gặp những lính Tàu… Bữa ăn sáng, hơi thuốc lá ngọt, đâu phải lúc nào mình cũng được sống hạnh phúc như thế, nhưng nếu mình được sống hoài như thế đã chắc gì mình thấy mình hạnh phúc. Mình sẽ qua những ngày phép trong căn nhà nhỏ, những đường phố dơ bẩn, những bữa ăn sáng và quanh quẩn ít người bạn…Cuộc sống hình như không còn gì lôi kéo về phía trước mặt mình. Trực bải hoải với những ý nghĩ buồn nản vô cớ. Mình sẽ hưởng những gì và ngay từ trong cùng tận của cuộc sống, một kêu gọi thẳm sâu nào… Và Trực như thấy mình sống lại… … Chiếc trực thăng vượt lên cao mãi theo với những ngọn núi kế tiếp và bầu trời xanh những lớp mây vươn lên chất ngất, len giữa những ngọn núi có lúc mây che khuất ngọn, gió lạnh buốt, qua khỏi những lớp trường thành thiên nhiên hùng vĩ đó trực thăng xuống thấp dần ngang qua những ngọn núi rừng cây với những ngọn cây trải thành thảm lá mướt êm đềm. một khoảng trống hiện ra với những đồn biên phòng nằm gọn trong thung lũng nơi tôi sống những ngày cô quạnh. Trực thăng lượn một vòng, xuống thấp dần và Trực nhìn thấy bóng một vài người trong chiếc sân trống giữa những lớp hàng rào kẽm gai, giữa những công sự chiến đấu, có những cánh tay giơ cao vẫy chào đón đợi…trực thăng sà xuống và đậu giữa sân của tiền đồn, cánh quạt ngừng quay và Trực bước xuống với ba lô, chiếc thùng sắt, tất cả những gì chàng có. Tôi hiểu những gì tôi sắp bắt đầu được sống những người bạn chưa quen, núi rừng xa lạ, mưa gió, thiên nhiên, những kẻ lạ không tên gọi đang ẩn hiện đâu đó và cái chết rình chờ bên những hẻm núi, nơi những gốc cây, lùm bụi hờm sẵn những họng súng, những mũi dao nhọn hoắt đã được mài giũa bằng những lời hô hào , những quyết tâm những lời thề sinh bắc tử nam …Chúng tôi có tám đứa được đưa tới tăng phái cho tiền đồn, người thượng sĩ đứng đón cách phi cơ khoảng 27/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày mười thước mỉm cười nhìn chúng tôi. Trực thăng ngừng cánh, một thành viên bỏ phi cơ đi vào trại mang theo một bao đỏ những thư từ của gia đình những binh sĩ trấn đóng nơi đây. Sau khi vào trại chúng tôi được dẫn tới gian nhà phía tay trái của trại, chúng tôi được chỉ cho nơi mình được sống, một số bạn mới của chúng tôi bu lại có người ngó nhìn, có người cười nói hỏi chuyện chúng tôi, ở đâu tới, bây giờ cuộc sống ở Sài-gòn, ở Pleiku, ở Kontum ra sao. Chúng tôi làm quen với nhau. Sau đó chúng tôi trình diện trưởng trại. Trong căn phòng được chất đầy những thùng đạn dựng đất vây lấy những bức tường, viên sĩ quan lặng lẽ nhìn chúng tôi từ đầu tới chân như một người ngắm nhìn những gì mới lạ. Đại úy N. tiến đến bên Hùng đặt tay lên vai người lính mới, mỉm cười - Chú em giết người rồi hả ? Nét mặt măng trẻ của Hùng như muốn đỏ lên, hắn lúng túng một lúc lâu, Đại úy N. hỏi tiếp - Sao, nhiều hả ? Hùng, giọng mất tự nhiên, nhỏ - Dạ, thưa đại úy không có… - Thôi mà, xạo hoài, cái sẹo nào đây ? Ngón tay trỏ của đại úy N. chạy dài trên vết sẹo từ nơi mang tai xuống cổ, vết sẹo còn để lại những dấu vằn như vết khâu trên da mặt. Vết sẹo làm cho khuôn mặt Hùng có một vẻ đặc biệt vừa dữ tợn vừa dịu dàng. Đôi mắt lớn cuống quýt, dáng ẻo lả. Trực không hiểu được Hùng, sao hắn có thể vào lính sớm như vậy. Trông thấy Hùng trong toán tăng phái, Trực ngạc nhiên không ít. Đại úy N. nói tiếp - Cái huy chương này đáng giá lắm… - Thưa đại úy, một tai nạn, bọn nó hiểu lầm em… Giọng cười khô khan - Không sao, hiểu lầm hay không chẳng sao, nhưng ở đây thì bỏ máu anh chị đi nghe, đây không có chuyện đâm thuê chém mướn đâu nghe, mấy tuổi rồi ? - Dạ, mười chín. - Một hiệp sĩ mù, được lắm… 28/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Bỏ Hùng lại, Đại úy N. đến bên Thiện cầm lấy cánh tay đưa lên, hình một người con gái khỏa thân xâm trên cánh tay đầy những lông đen quăn, Đại úy N. cười cười bỏ xuống không nói, ông đi tới những người khác. Tới Trực ông chậm chạp nhìn ngắm. Đôi mắt sâu hút, lông mày rậm, nước da đen, đôi môi đỏ, ống mũi nhẹ nhàng. Tôi không thấy nơi ông một vẻ gì hung dữ, Trực đứng im. Đại úy N. - Tóc tai tài tử quá hả, vợ con gì chưa ? - Dạ chưa. Đại úy N. mỉm cười nhưng nét mặt vẫn có một vẻ nghiêm nghị một cách khôi hài - Sao chưa biết hả ? - Dạ biết… Trực ngượng ngùng nhìn xuống, tiếng cười trong cổ họng vị sĩ quan, ông đi trở lại phía sau bàn giấy, ngồi xuống lấy thuốc châm hút - Rồi, các chú tới đây bọn tôi mừng lắm, ở đây thì đường hoàng nghe, giang hồ với nhau, không có quan với lính mẹ gì hết, sống đường hoàng, xuống dưới đó nhận tiểu đội, kiếm rượu uống, có tiền không, đây phát cho mỗi chú một ngàn, cho mượn chờ tháng lĩnh lương trả, trừ đứa nào được bạc thì trả ngay. Rồi, cảm ơn mấy chú. Cả đám rời khỏi phòng, trở lại với những bạn mới, Trực thấy yên tâm phần nào với đại úy N. ông mang đến cho mọi người sự thân mật cần thiết, đáng ra Trực không cần tiền nhưng thấy dáng vẻ của Đại úy N. Trực thích số tiền đó. Trực bỏ đồ đạc vào nơi đầu chiếc giường được chỉ định, chàng nhận thấy căn phòng có một vẻ hỗn độn đặc biệt, những hình khỏa thân lấy ra từ trong một tập báo Mỹ dán đấy nơi những vách ván, bên đó treo những mũ, súng, những cành cây khô, nơi đầu giường gần nơi cửa của phòng có một khóm lan rừng treo từ vách rũ xuống ở bên một cây đàn. Trực nghĩ một tay nghệ sĩ giang hồ. Trong phòng có mười chiếc giường, Trực là một trong hai người được bổ sung cho toán này. Trong phòng, lúc đó chỉ còn lại hai người, Lịnh và Mãnh, những người vắng mặt đang ở trong một chuyến công tác vắng mặt đã ba ngày, Lịnh nói - Tháng trước có hai con đi ngủ, bọn tôi chờ mấy anh. Tôi cũng sắp được về, sáu tháng rồi. - Rách hai con hồi nào ? 29/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Tháng trước, mới đầu tưởng thất lạc, sau thấy bị treo trên một cành cây. Giọng Lịnh bình thản. Mãnh đứng bên, tựa người vào vách nhà nhìn chúng tôi, tôi lo trải giường rồi nằm xuống cho những thớ thịt doãi ra. Sáu tháng là ít nhất tôi sống ở đây và có thể chết ở đây. Mãnh nói - Tôi muốn đổi về Lôi Hổ, ở đây buồn quá, ngày đêm lúc nào cũng như bị tù, chẳng có nơi nào là hậu cứ cho mình, thiếu mọi điền cần thiết, sống hết nổi, có lúc muốn phát điên, anh tưởng tượng sáu tháng không đàn bà… Mãnh cười cung cúc như tiếng cười của môt người đàn bà thô kệch không còn duyên dáng của một người nữ. Trực cười theo lặng lẽ. Thời loạn, những đòi hỏi thực tế con người. Mình cũng đã chọn một đời sống đã chết. Sao mình không làm khác ? Làm gì ? Trực lại nhớ tới người con của ông chú, thi xong tú tài nó học cầm chừng và chơi bời, la nó, nó nói nhẹ nhàng đằng nào rồi cũng vào lính, chỉ có chờ, chỉ có trước hay sau… Trực nghĩ tới vô số những người khác cùng lứa tuổi với mình, chỉ có một nơi chờ họ tới Trại binh , sau đó là chiến trường ...Tương lai sáng lên những u tối của một thời đại liên tiếp những biến đổi, liên tiếp kéo tới những số kiếp đồng dạng bi thảm nhoa nhếch những máu và nước mắt. Trực cầm trong chiếc ba lô ra tờ nhật báo cũ bỏ lên giường. Mãnh cúi xuống cầm lên đọc - Ở đây bọn tôi chỉ có la dô, tờ báo cũng trở thành kỳ lạ. Nghĩ thấy những cái này cũng chẳng cần gì. Thực nhiều khi tôi không còn muốn biết gì nữa, mọi điều ở ngoài nơi đây tôi không cần biết tới. Anh cũng đã biết ? - Tôi biết, ở trong lính được hơn một năm rồi. - Như vậy là thọ. - Anh thích Lôi Hổ ? - Không phải thích, nhưng trong những thứ buộc phải lựa chọn thì mình chọn cái nào khá hơn, chẳng lẽ chọn đời sống của một tên trốn chui trốn nhủi hay một tên lính gác cửa, anh thấy vậy không ? - Anh tưởng vậy, tìm một chỗ làm lính gác cửa đâu phải dễ gì tiền bạc không đó ? - Thật là thằng ngu mới lựa chọn như thế, nhiều chuyện không hiểu nổi, thật bọn heo… - Có lần tôi xin đi làm chuyên viên chất nổ mà không được, tim đập ghê quá. 30/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Mãnh cười, hắn lật trang báo tới chỗ này chỗ khác, Lịnh nằm dài nơi chiếc giường mé bên kia. Hùng đã trải xong và thu xếp mọi thứ cần thiết. Trực nhìn Hùng lúc lâu, vết sẹo nơi mang tai. Nghĩ tới ngón tay của Đại úy N. và câu chuyện ngắn ngủi khiến Trực bật cười và bỗng thắc mắc về Hùng - Trông cậu như tên tội phạm khi đứng trước đại úy. - Phạm tội, rỡn hoài… - Thế sao xanh mướt, run và mồ hôi chảy nhép trên mang tai, cậu cũng anh chị nhỉ, lịch sử một vết sẹo đâu phải cứt gì, cũng đâm chém đấy chứ… - Thôi đi, một tai nạn xe cộ, một tai nạn hồi nhỏ tuổi không thể có à ? - Không tin, trông mặt cậu ta không tin, lại nữa, bước chân vào một nơi như thế này, cậu không phải như thế, khai đi cho anh em nghe chơi và ngưỡng mộ. Hùng lặng thinh không nói, Mãnh ngó Hùng không chớp mắt, Lịnh cũng nhìn Hùng như muốn biết rõ về người bạn đồng đội mới của mình. Không khí im lặng như chờ đợi. Hùng nhìn Trực - Thế còn cậu, không có một lịch sử nào cho cậu sao ? thất tình phải không ? một nàng tiên nào đó đã đá cậu một cú song phi ? - Lại chuyện tình nữa, có thể lắm, chết vì tình là nhất. - Đó là lịch sử của cậu ? - Nàng tặng ta khổ đau Ta không nhận nhưng cầm Mang về để dưới gối… - Chà một nghệ sĩ giang hồ. Cả đám cùng cười rộ. Trực tự hỏi tại sao không có một lịch sử nào cho mình, tại sao mình lại thấy phải bước vào con đường này một mơ ước phiêu lưu ? một lựa chọn vô lý ? một thự tế cùng quẫn ? một vô vọng lười biếng ? Một chuyện tình cho mình có để bỏ đi như hành lý cần thiết là một hạnh phúc mà mình cũng không có. Tôi chỉ có những nàng tiên trong ổ đĩ, chỉ có những thoáng nhìn tội nghiệp, chỉ có một đời sống mồ côi và thực tế cơm áo, tôi không có gì khác ngoài một thực tế tầm thường. Trực như nói với mình 31/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Nếu có một chuyện tình như mình nhớ. - Thôi đừng mơ mộng chứ… Hùng bỏ ra ngoài phòng. Trực ngả người xuống giường. Nơi đây tôi sẽ sống những ngày sắp tới. Không khí những người chung quanh mang đến cho Trực một niềm vui, ở đâu cũng thế, trong những năm trôi nổi chàng chỉ thấy có tình bạn. Những bên nhau, đi bên nhau, chiến đấu bên nhau thân thiết như chân tay. Đôi mắt một người bạn cũ mở không ngừng trong trí nhớ Trực. Hai đứa vừa vượt lên khỏi hầm lao đầu về phía trước thì một loạt đại liên nổ xối xả, hắn ngả xuống với tiếng kêu thất thanh. Trực không tiến lên, nằm rạp xuống, quay đấu trở lại, người bạn đang quằn quại với vết thương trên ngực. Quên những làn đạn trên đầu, Trực bế vội người bạn quay trở lại hầm trú ẩn. Người bạn không nói được, máu chảy ướt sang người Trực. Đôi mắt hắn mở lớn không chớp. Lúc sau giữa những tiếng đạn nổ nhức nhối tiếng người bạn thều thào tao chết mất mày. Và hắn chết, đôi mắt mở lớn như tìm kiếm cái gì. Trực nghĩ tới những người thân của hắn. Trực nhớ tới câu chuyện một ngày nào đó đã xa lắm hắn nói hắn bỏ gia đình mà đi, hắn chỉ thương mẹ hắn. Đôi mắt mở trợn trừng, tiếng kêu thất thanh nơi tuyến đầu vẫn như còn đó với hình ảnh khắc ghi. Trực đã lấy bàn tay dính máu vuốt mắt người bạn mà trước đó không lâu còn cười nói bên mình. Chính trong chiếc hầm đó, Trực đã rã người đi với xác người bạn lạnh dần trên tay. Khi trở lại sau trận chiến với máu đầy trên người, những đồng đội đã nhìn thấy Trực như một người chết hiện về. Cuộc sống ngắn ngủi, cái chết tình cờ dễ dàng nhanh chóng đã nhiều lúc khiến Trực bàng hoàng. Bây giờ ở đây, những bạn bè mới gặp, những ngày tháng gai lửa trước mặt, Trực tự nghĩ, biết đâu một hôm nào đó Trực sẽ trút hơi thở bên một người đồng đội . Cái chết mang theo mọi điều đã có trên đời sống, những điều chẳng liên can đến ai. Chiếc ba lô, chiếc thùng sắt, một ít vật dụng, một số tiền chết cũng không ai nhận lãnh, và chàng nằm xuống lòng đất rã tan… Trực trở dậy theo Mãnh đi thăm căn trại. Những bạn mới, những căn nhà như hầm với những vỏ đạn, bao đất, thùng đất chất chồng từ nơi này tới nơi khác, những công sự chiến đấu kiên cố, Mãnh nói - Hồi cách đây ba tháng bọn này bị đói mất mấy ngày, bọn nó làm dữ, trời thì mưa không sao tiếp tế được, tức phát chết là đồ thả dù lại rơi vào bọn nó hết, tức cười nhất là một thùng đồ rơi phía ngoài vòng trại một khoảng, cả hai bên cùng tìm cách chiếm, thằng ở trong bò ra thì bị bắn, thằng ở ngoài định lấy cũng không được, mấy thằng bị chết vì kiện lương thực đó, nghĩ đến tức cười giữa hai làn đạn, sau những ngày cầm cự đến lúc ra lấy được kiện hàng thì chẳng phải lương thực gì hết mà toàn là quân 32/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày trang, chẳng hiểu là họ nhầm hay không, nhưng quân trang đầy những vết đạn và chẳng đứa nào thèm lãnh hết. Nghĩ thực tức cười. - Nhưng cậu thì mong ở trong đó một thứ gì ? - Một người đàn bà được bọc trong một thùng bằng thép. Trực cười ngất, Mãnh nghiêm giọng - Ngó bộ cậu nghĩ đó là chuyện bậy bạ sao ? Một chuyện nghiêm trang đó chứ. - Đâu có, mình tưởng cậu nghĩ tới lương thực. - Lương thực cũng cần, nhưng đàn bà cũng cần. - Bọn đàn ông ở chung lại với nhau, ở trong tù, ở trong trại lính trước hết nghĩ tới ăn đã, trước là cần có cái ăn, sau là ăn ngon và đủ, sau đó mới tới chuyện đàn bà. Ăn đã… Hai người tiếp tục đi vòng quanh khu trại, Mãnh chỉ nói tới nhà nào lương thực, chỗ nào súng đạn, tới căn nhà nhỏ nằm riêng phía góc của trại, ngoài phía sân bay trực thăng, kế đó phía ngoài hàng rào có một sân bay nhỏ trải đá đỏ dùng cho các chuyến bay tiếp tế, đường bay ngắn có nhiều hố đạn chưa được lấp phẳng, dấu tích của những trận pháo kích của địch quân. Mãnh nói - Đó là nhà Vĩnh biệt, và đó cũng là nhà chứa bộ quần áo cho bọn mình diện lần cuối nếu có may mắn… - May mắn ? - Chứ sao ... - Cậu còn yêu đời lắm, nghĩ tới cả lúc chết thì tuyệt thật. Cái kho áo quan ấy trước không có, sau này mới có vì bọn này đã bị một lần cực vì cái ông bạn mình chết ở đó. - Sao vậy ? - Cậu thử tưởng tượng bây giờ có người chết, kéo dài hàng nửa tháng để trong trại này, mùi hôi thối có làm cho cậu chết không ? Bọn này đã bị rồi… Nửa tháng máy bay không xuống được, mưa, sương mù và đạn thù làm cho bọn sống, bọn chết, người bị thương ở chung với nhau .Phải sống qua mới biết thế nào là mùi tử khí . Sau này trại xin cho quan tài bọc kẽm mang xuống, anh nào tịch bỏ vào liền, gắn chì lại, để cả năm cũng không sao… 33/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Trực rùng mình nghĩ tới cảnh đó nơi chàng vừa bắt đầu thời gian mới của đời mình. Thức ăn, súng đạn và mơ ước . Một nỗi cay đắng buồn phiền xâm chiếm Trực… Những ngày tháng mới, những chuyến đi toán, rừng cao lớp lớp không ánh mặt trời, không một con đường mòn, chỉ có lá rừng dưới chân, những cạm bẫy chờ đợi, những họng súng đâu cũng đã có lần ngây ngất với hương lan hoang dại giữa rừng sâu, những con suối trong vắt chảy dài như con rắn hiền lành. Giữa rừng sâu, giữa những hoang vu đầy mùi thảo mộc đó có lúc Trực nghĩ tới một viên đạn nổ vào đầu, ghim vào ngực và Trực nằm xuống không còn thở nữa. Chàng muốn được nằm đó và thân xác tan rữa. … Trực nhớ tới những điều đó, những ý nghĩ quanh quẩn lâu lâu với hoàn cảnh lại thức dậy… Nhưng chàng đã không chết, chàng đã sống và dời khỏi tiền đồn, chia tay với bạn bè, từ biệt những con đường ngắn ngủi chạy quanh khu trại, từ biệt chiếc giường sắt, những cái ghế trong câu lạc bộ, từ biệt những họng súng chờ đợi nhìn xuống từ những sườn núi, từ biệt những kẻ lạ mặt trì chí trong rừng sâu nhưng có hẹn ngày trở về ? … Những ý nghĩ miên man đến với Trực, cơn mưa ở đâu ập xuống xối xả, buổi sáng như được kéo dài theo với cơn mưa và không khí ẩm lạnh của thị trấn trên cao. Trực kêu thêm cho mình một ly cà phê, thứ cà phê đất bùn này dù sao cũng còn khá hơn thứ cà phê của bọn Mỹ bỏ trong những chiếc bao chua lòm khó chịu. Cửa tiệm gần như không còn sinh hoạt nào khác, Trực ngồi một mình trong đó giữa những bàn ghế bỏ trống. Người đàn bà ngồi nơi quầy có lúc vào nhà trong bỏ lại khoảng trống, ngoài đường, thỉnh thoảng một người ngang qua với áo mưa ướt bóng. Những chiếc xe nhà binh chạy nhanh xuống dốc vời tiếng máy khó chịu. Mưa như thế này ở trong thung lũng thì coi như buổi tối đã bắt đầu và mọi người nằm ngồi trong ánh sáng vàng của những ngọn điện treo trên cao. Tấm lịch chàng có đã phải được gạch đi từng ngày để biết thời gian trôi, những ngày hành quân trong rừng, có lần trở về Trực không còn biết rõ ngày tháng. Chừng như thời gian trong những ngày tháng ấy dài hơn những ngày tháng khác. Trong ngôi trại, mùa mưa có những giấc ngủ kéo dài khi thức dậy chàng không còn trí nhớ để xem mình đang ở trong đêm mình đã ngủ, ngày hôm sau hay là một đêm khác đã bắt đầu, những ngày tháng vô vị lãng đãng đó như một cảm giác vô vị nhạt nhẽo lềnh bềnh trôi và Trực thả mình trong lười biếng cùng trí óc cùn nhụt… Hai đứa nhỏ đánh giày ướt át đi vào, đứng nơi cửa ngó ngang quán ăn tìm kiếm những khách hàng. Một đứa đến bên Trực - Đánh giày anh hai… Không kịp nghe trả lời đứa nhỏ đã ngồi ngay xuống kéo giày của Trực định đánh, Trực kéo chân lại, ngó xuống 34/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Mưa gió mà đánh gì chú bé. Đứa nhỏ tay vẫn cố lôi chân Trực, mắt nhìn lên nhìn Trực với vẻ tội nghiệp khó chịu, đôi mắt thơ ngây, khuôn mặt khô lại, những giọt nước còn chảy nhoa nhếch trên mặt, chiếc áo cánh mỏng ướt nhép, chiếc quần ngắn, hắn ngồi bỏ cao hai đầu gối trần ra ngoài đầy bùn đỏ. Trực nhìn vào mặt bàn - Thôi không đánh đâu em. Đứa nhỏ đứng lên ra cửa ngồi xuống bên đứa bạn nhìn ra ngoài đường cơn mưa đang xối xả đổ xuống. Một đứa đang hút một điếu thuốc, khói bay lên chậm chạp trong bầu khí lạnh đặc. Cơn mưa làm bầu trời thấp và tối, những thân cây và những căn nhà bên kia đường nhòe đi trong mắt nhìn. 1972 Cánh đồng mùa xuân 1 Chú tôi ngồi dựa lưng vào tường , hai tay cầm lấy hai mép của chiếc bao tải căng rộng ra đưa xuống dưới chân, hai chân co lên rồi lồng vào chiếc bao tải và duỗi thẳng, chiếc bao tải quá khổ nhờ thím tôi tháo đáy một cái rồi khâu nối lại với nhau, miệng chiếc bao tải kéo lên ngang ngực, chú kéo hai đầu dây buộc lại, bây giờ chú đã gọn gàng trong chiếc bao,hai tay bỏ xuống dưới, ngả người vào vách nhà. Tôi cởi chiếc khăn quàng ra chùm lên đầu còn lại quấn một vòng cổ và buộc lại - Năm nay sao rét ngọt quá, rét từ trong bụng mà ra, cháu làm cái ổ rơm dưới hầm cẩn thận không ? - Ở dưới ẩm quá, chắc hầm ở dưới mực nước ao. Thím tôi ngồi ở chiếc ghế đẩu phía ngoài đang hơ những ngón chân lên những nùi giẻ cháy khét và khói mù, có lúc nhăn mặt vì đau đớn với những khe chân nước ăn bị nứt ra. Chú tôi cầm chiếc điếu cày hít một hơi thuốc dài, hãm khói rồi thở khói thuốc lên cao. Chú bỏ chiếc điếu xuống bên, ghếch lên vách nói lơ đãng - Chú muốn cháu ở hẳn ngoài ấy, cháu không nên ở nhà nữa, mặt trận mỗi lúc một thít lại, bom đạn thì vô chừng... 35/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Thím tôi ở phía ngoài ngẩng lên nhìn tôi rồi lại cúi xuống, tôi nhìn chú tôi - Cháu muốn đưa bố cháu đi, không thể để ông dưới hầm mãi như thế. - Làm sao đi ? Lên tới huyện là có thể bị bắt giam rồi. Giải thích làm sao đây ? - Để bố cháu chết ở dưới hầm đó sao ? Chú tôi ngồi im, tôi thấy hai ngón chân cái chú động đậy trong chiếc bao tải. Ngọn đèn nhỏ như hạt đậu xanh đứng im trên ngọn bấc, gian nhà chìm vào trong một thứ ánh sáng vàng nhờ nhờ bệnh hoạn. Tôi nghe như những ngọn gió lẻn vào trong vách vào trong nhà, hơi gió buốt có lúc len vào cổ, luồn vào trong chiếc áo bông ngắn ngủn trên người. Chú tôi thở dài, cúi xuống với hai tay khoanh trước ngực - Chú cũng tính đưa thím ra ngoài kiếm ăn, ở nhà không yên, nhưng cháu thấy, bây giờ mình đi thì như chim chích vào rừng làm sao nuôi sống được nhau, ruộng nương ở nhà giao cho ai, bán thì không có ai mua, mình chỉ có thể sống được ở quê nhà, riêng phần cháu thì được, chính thế chú muốn cháu hoặc trở ra ngoài đó hoặc trở vào với bác. Chuyện của bố cháu để chú thím lo, cháu còn nhỏ… bây giờ ở quê mỗi lúc một bất ổn, cháu thấy đó, mới đêm qua ông Trùm bị giết. - Ông Trùm bị giết ? - Chú mới nghe tin hồi chiều, tính xuống dưới thăm nhưng rồi chú không dám đi, từ đây xuống Bãi Bồi chiều tối là không còn bóng người. Đêm qua họ họp ở dưới đó, ông Trùm bị mang ra xử và bị bắn ngay ở cửa nhà thờ… - Tội gì, họ nói tội gì ? Ông Trùm già và hiền… - Chó săn cho Tây. - Thực sao ? thế chú gì đó con ông Trùm là du kích sao không cứu cha ? - Tây nó bắn chết hồi năm ngoái rồi. - À phải rồi… Tôi ngồi yên với những ý nghĩ miên man, bây giờ thì thực sự chú thím tôi đã không muốn cho tôi ở nhà nữa, dù chỉ là những thời gian ngắn ngủi, 36/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày những tuần lễ học hành ở ngoài tỉnh không cho tôi yên tâm mỗi khi nhớ tới cha tôi đang nằm dưới hầm và quê nhà thân yêu, chú thím tôi phải sống trong vòng lửa đạn[1]. Có lúc tôi muốn trở lại Nha Trang với bác tôi, nhưng tôi đã không thể quyết định được giữa vô số những giằng co không đâu, mà tôi nghĩ những người cùng trang lứa chắc không nghĩ đến. Khi nghĩ tới chuyện đưa cha tôi ra khỏi hầm, đưa cha tôi ra tỉnh, tôi hiểu ngay rằng tôi chưa đủ lớn để làm một điều gì. Đêm càng khuya tôi càng cảm thấy lạnh buốt nơi hai bàn chân không, mùa đông trở lại, ở quê không có chăn, thím tôi đã mua được mấy cái bao tải và đêm lại mỗi người chui vào trong cho qua giấc ngủ trên ổ rơm khô. Những buổi sáng thức dậy bỏ tay vào chậu nước cảm giác tê buốt chạy khắp cơ thể, trên những mặt ao tù chừng như hơi nước còn đọng lại và tôi chờ nắng lên ra ngồi ngoài sân gạch cởi chiếc áo len cũ ra lần bắt những con rận nằm nép bên những đường đan gấp lại, những con rận khô bên những chiếc trứng trắng tươi như hạt vừng nhỏ đã sát vỏ. Và mỗi ngày tôi mang xuống hầm cho cha tôi môt ấm đất nước nóng. Có những buổi sáng tôi thấy cha tôi vẫn ngủ say nằm co quắp trong chiếc bao tải, có buổi tôi tưởng như cha tôi đã chết. Lúc bấy giờ mùa đông, tôi nhớ rõ thế, trong một tình thế khó khăn bất ổn, chú tôi đã không muốn cho tôi ở lại nhà, tôi thì muốn đưa cha tôi lên khỏi hầm, đưa ông ra tỉnh sống, nhưng chú tôi không thể giúp tôi thực hiện điều đó, chú tôi cho tôi thấy tất cả những khó khăn, tôi ra tỉnh và tìm kiếm, hỏi han một số người quen biết giúp cho, sau chót tôi có một người đằng ngoại nói với tôi là nên nói chuyện đó với Cha sở, nhờ ông nói với Tây và ông Quận rồi đưa cha tôi đi. Thực ra lúc đó chuyện cha tôi trốn dưới hầm vẫn không ai rõ, tôi thì nói cho người ta hiểu mập mờ như là cha tôi ở ngoài khu muốn về tề. Và tôi mang chuyện đó ra nói với cha tôi. Đúng như chú tôi tiên liệu, vài ngày sau khi ông Trùm bị xử bắn thì Tây hành quân càn quét một cách hung bạo, đêm họ lại bắn moóc- chê vào làng nữa. Cha tôi ở dưới hầm mà cũng run. Nhưng ngay khi Tây đi khỏi, đêm lại, du kích về đốt sạch cả xóm Bãi Bồi, lửa cháy sáng cả một góc trời, tôi ra đứng nơi sân ngó về hướng bên kia bờ đê mà kinh hoàng. Nhưng cũng may phần lớn những người ở đây đã bỏ xóm mà lên tá túc trên huyện cả. Tôi kể lại sự kiện này cho cha tôi nghe, ông thở dài và buồn khi nhắc tới ông Trùm, một người bà con xa với gia đình. Tôi nói - Con muốn cha ra tỉnh, con không muốn thấy cha chết ở dưới hầm. Cha tôi lắc đầu nhìn tôi, tôi thấy những ngọn tóc bạc lay động. - Vậy cha chịu chết ở dưới này sao ? 37/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Không cha tin ở một đổi thay. 2 Người lớn tuổi im lặng cúi nhìn xuống khoảng đất bột phẳng mà người trẻ tuổi đang dùng chiếc que vẽ một tràng pháo đài với những chiếc pháo đều đặn. Người trẻ ngửng lên nhìn bạn, người lớn tuổi giọng mơ hồ - Lại hồi tưởng, thời ấy đã xa rồi… Anh lại đang… - Tôi nhớ lại một cái Tết hồi còn ở lại ngoài Bắc, cái Tết cuối cùng nơi quê hương, và có lẽ là cái Tết cuối cùng trong đời, dù là Tết trong thời loạn, từ đó mình không còn là Tết nữa, anh có vậy không ? Người lớn tuổi phác một nụ cười trễ biếng trên môi - Người ta bao giờ cũng gắn bó với quá khứ, chính quá khứ đã khiến anh không sống được gì, đó là một thiệt thòi, lỗi một phần ở anh. - Lỗi ở tôi ? - Một phần, đừng cáu giận chứ. Người trẻ im lặng cầm cái que trên tay vứt ra xa, lấy chân chùi bỏ hình vẽ trên mặt đất. Người lớn tuổi nhìn vẻ ái ngại - Nhiều lúc tôi không hiểu gì nơi anh hết, anh thật gần với tôi, nhưng có lúc tôi thấy anh lạ quá, những điều anh nói với tôi cũng vậy, có lúc tôi nghĩ anh sắp làm sáng tỏ một điều gì, thì ngay đó tôi thấy anh đã xóa bỏ nó không giải đáp, và ngay đó anh lại mở ra một vấn đề khác không ăn nhập gì… - Không phải thế, chính nó vẫn ở trong câu chuyện mà tôi đang nói với anh, muốn anh giúp, tôi thấy tôi không thể giải thích được một cách thỏa đáng, để sau đó có thể chết thanh thản. - Không phải thế, không phải là cái chết,chính là sự sống… - Tôi đã lại thấy đau đầu, chừng như có một hạt sạn nào đó lọt vào trong đầu tôi. - Không phải đâu, tôi biết một chuyện khác. - Cái gì ? - Một cái cây đang mọc ở trong đó. 38/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Người trẻ vẻ mặt nghiêm, người lớn mỉm cười tinh quái - Tôi biết, hồi nhỏ, anh ăn ổi, ăn cam, ăn nhãn rồi anh nuốt hột vào trong bụng, phải không, bây giờ những hạt đó đã mọc mầm và đâm lên đỉnh đầu. Người trẻ tuổi phá lên cười, người lớn cười theo, tiếng cười hồn nhiên giòn tan trong không khí yên lặng của khu bệnh viện. Người trẻ gật đầu vẻ tươi tắn trên nét mặt xanh xao - Anh làm như tôi còn con nít, điều ấy hồi nhỏ tôi vẫn sợ mỗi lần ăn quả gì mà vô tình nuốt cả hột, nhất là khi ăn nhót, anh biết không ? - Thôi đừng nói, chảy cả nước miếng, tôi nhớ nó hồi được ra Hà-nội học, những trái gì mà mọng đỏ, với phấn và mình cầm từng trái sát vào áo len và áo dạ… Ơ nhưng mà hình như anh đang nói với tôi chuyện gì kia mà, đâu phải là những trái nhót nhỉ ? Người trẻ tuổi lặng yên, người lớn nhìn mông ra khu sân cỏ của bệnh viện, người trẻ tuổi tư lự, người lớn tuổi ngó bạn thương hại - Điều tôi muốn biết là cha anh sau đó có được cứu sống không ? - Thong thả anh để cho tôi nhớ lại, vâng… Người trẻ lấy một điếu thuốc châm hút, người lớn tuổi lấy một viên kẹo ngậm, chút giấy bông nhỏ vê tròn trong lòng tay. Người lớn tuổi đứng lên đi về phía bên kia nhà nguyện, buổi chiều đã xuống, trên con đường từ cổng bệnh viện đi vào số người vào thăm bắt đầu đông hơn, những bước đi vội vàng, những gói quà trên tay, trong giỏ xách. Người trẻ tuổi vẫn ngồi im nhìn người bạn bước đi chậm, người lớn tuổi quay lại nói - Đứng lên, đi một chút cho nó khỏe chứ. Người trẻ vừa đi đến vừa nói - Đã què rồi còn ham đi, nếu còn chân chắc lúc nào anh cũng chạy, phải thế không ? Người lớn tuổi cười, gõ tay vào chiếc nạng - Chưa chừng rồi tôi trở thành một hiệp sĩ độc cước. Người trẻ nhìn bạn ngậm ngùi 39/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Bây giờ chỉ toàn là những hiệp sĩ, hiệp sĩ mù, hiệp sĩ độc thủ, hiệp sĩ cụt, có điều toàn là hiệp sĩ không có kiếm. - Anh nghĩ tôi khuya cái nạng này lên mà không mệt à. - Thôi, cũng không xong đâu, anh không thấy là mình thua đấy sao, thua rồi, hỏng rồi… Tôi , tôi mất hết cả tin tưởng. Chúng ta ở trong một cái vòng siết rồi. và đau lòng hơn hết khi tôi thầy chúng ta đứng ở hai phía của Tây phương lại vẫn cứ tưởng rằng mình là dân tộc… Người trẻ tuổi dừng lại với cơn ho rũ rượi, người trẻ rũ người xuống như một tàu lá, người lớn đi vội lại bên cho người trẻ tựa lấy, cơn ho nghẹn ngào, khi cơn ho dứt, người trẻ ngửng mặt lên với khuôn mặt nhòe nhoẹt những nước mắt, da tái nhợt, hơi thở gấp gáp cồn cào - Nói cho cố, nghe bệnh anh không khá được, mình lại kia đi, ngồi một chút cho khỏe lại. Anh bi quan quá. - Bi quan, bác sĩ bảo tôi không chết vì bệnh mà chết vì những điều nhảm nhí trong đầu. Nhảm nhí, cái tiếng ấy nghe hay thật. - Anh không thấy là thời tiết đang chuyển đó sao, cuối đông rồi, mùa xuân sẽ đến… - Anh đừng an ủi tôi, mùa xuân. Tôi đâu đã được sống. Trời đã tối hẳn, buổi chiều đã tan, những ngọn đèn đã bật sáng, hai người trở lại phòng. 3 Khi chuồi người được vào trong hầm, tôi ngừng lại một lúc để làm quen với bóng tối vây quanh, trong ánh sáng lờ mờ tôi nhìn vào góc tối quen thuộc nơi cha tôi vẫn ngồi, tôi thót người hốt hoảng trong giây phút, tim đập mạnh, chỉ còn một ổ rơm bỏ trống với dấu vết của một chỗ ngồi. Cha tôi đã biến đi đâu ? Tôi tưởng tượng tới chuyện cha tôi đã rời khỏi hầm và biến vào một thế giới nào đấy, biết đâu, trong đêm trước mặt một người nào đó, người bạn cũ chẳng hạn, đã đến đây với mũi nhọn trong người mang cha tôi đi, rồi một bản án ghim trên ngực, hay một viên đạn xuyên mang tai… Tôi run lên với những lo sợ. Tôi đứng im lắng nghe, với những cố gắng tột cùng tôi tìm kiếm cha tôi… vách hầm phía trước mặt, lỗ thông hơi với ánh sáng, bên trái tôi và bên phải, tôi giật mình, cha tôi đang đứng ép người vào một vách hẩm ngay bên người tôi. Tôi thở ra, lấy lại bình tĩnh cha, cha làm gì vậy ? Tôi nghe thấy tiếng cha tôi thở dài, bỏ chỗ đứng và ngồi xuống nơi ổ rơm tệ quá, thời gian làm cho cha mất khả năng chịu đựng, cha đứng thẳng xem mình còn sức khỏe không, tệ lắm rồi, đứng đã 40/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày thấy mỏi, đầu gối đã thấy run và hơi thở không đều nữa… cha tôi cười thành tiếng. Tôi đã quen với bóng tối đi tới ngồi xuống bên cha tôi. Như một thói quen cha tôi nói con hãy kể những chuyện con biết cho cha nghe… Tôi ngồi và nói cho ông biết những chuyện đang diễn ra trên mặt hầm, những trận càn quét, những sinh hoạt của mọi người, trong đó có chuyện một thanh niên trong làng đã dẫn Tây từ đồn về khui lên một cái hầm của du kích, bắn chết hai người, bắt đi một người và đốt ngôi nhà có hầm… Anh ta bị bắt cách đây một tuần, hôm nay trở về với vẻ vàng vọt, chú nói Tây nó đánh dã man anh ta không chịu được nên khai, anh ta là con bà nhiêu gì dưới xóm dưới, ngay sau khi Tây dẫn người con về khui hầm thì ông bà ấy vội vàng ôm quần áo lên huyện vừa đi vừa khóc, họ sợ đêm du kích về thì khó sống. Cha tôi thở dài e rồi cũng có ngày Tây nó khui được hầm của cha cho mà coi, con bị đánh có khai cho cha là Việt Minh không ? Một cảm giác lạnh buốt chạy suốt sống lưng tôi. Tôi hình dung tới khi mình bị treo lên sà nhà, bị côt điện vào chân tay, bị ngâm vào trong bể nước dơ bẩn, bị đổ nước sà phòng vào miệng rồi người ta dùng một tấm ván đè lên bụng mà nhảy lên cho ói hết mật xanh mật vàng…có khi lúc ấy tôi sẽ khai cha tôi là Việt Minh… Cha đang đào hầm cho sâu hơn một chút nữa… Vừa nói cha tôi vừa trở lại nơi cha tôi vừa đứng, ông cầm lấy chiếc bát và đào đất lên, tôi thấy ở chỗ đó đất đã sâu hơn xuống một chút. Nhờ đất dưới hầm và dưới sâu nên mềm, với chiếc bát cha tôi có thể đào được một cách không khó khăn nhưng chậm chạp. Ông cắm cúi làm việc như quên tôi có mặt ở bên, trong bóng tối nhờ nhờ tôi nhìn thấy những cố gắng nơi ông dồn vào một bên tay ra sức đào sâu thêm chiếc hầm của mình, trên thái dương những nếp gân như cũng nổi lên với những cố gắng của cha tôi, nơi đó tôi tưởng như mồ hôi đang vã ra. Con đã thấy một người giãy chết ở trước mặt bao giờ chưa ? Chưa. Cha đã thấy một người giãy chết trước mặt, biết ông ta chết mà không sao cứu được, người ta cắt cổ ông ấy, máu phọt ra nơi cổ như người ta cắt tiết một con gà, sau đó là những bọt, chân tay thì giãy giãy nhẹ nhẹ, có cái lạ là người đó không chết nhanh chóng, anh ta vẫn cố gắng thở như bám chặt lấy sự sống…bây giờ hình ảnh đó như vẫn còn hiển hiện, lúc bấy giờ người ta như thế nào nhỉ… Trước đó với con người đó, anh ta đã nhìn thấy một con người khác, hắn là kẻ cầm con mã tấu từ từ cứa lên cổ kẻ được coi là thù địch kia, nào đâu có phải là một nhát chém mạnh cho xong ngay, hắn không muốn thế, hắn nói phải bắt nó chết từ từ, chết trong đau đớn, xưa kia vua chúa trị vì phạm nhân còn đặt ra lệnh “tùng xẻo” thì đủ biết, môt tiếng trống đánh lên, một miếng thịt được cắt khỏi cơ thể, cho tới lúc kẻ kia chỉ còn một bộ xương… Kẻ ấy phải chết vì bị kết tội Việt gian, trong người mang cờ tam tài, một miếng vá nơi lẩn trong chiếc áo khoác, còn để làm gì nữa, chính là dùng để ra hiệu cho máy bay Pháp dội bom xuống bộ đội…Cha đã sống giữa một phiên tòa, một phiên tòa được coi là 41/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày của nhân dân kết án kẻ kia, người ta la thét, chửi bới, lớn tiếng như một bầy thú điên cuồng, trong cuồng nộ của đám đông kẻ bị mang ra xét xử chỉ còn có cái chết chờ đợi, hắn không được bào chữa, tiếng nói của bị tước đoạt, giành giật, hắn xanh như tàu lá giữa đám đông và tiếng nói của hắn biến mất, với đôi mắt thất thần nhìn quanh nhìn quất như chẳng còn ai có thể cứu được hắn… Hắn chết trong cơn cuồng nộ của kẻ khác và trong sự u tối, ngu xuẩn của đám đông bị dẫn dắt lôi kéo với những mưu toan… Cho đến ngày nay cha vẫn không quên được sự việc… Cha tôi bỏ chiếc bát xuống, đứng lên, dựa lưng vào vách hầm, ông đứng thật thẳng, hai chân bỏ cuống hố mới đào thêm, ông giơ tay lên khỏi đấu chưa được. Ông vừa đụng tay lên trần hầm vừa nói ngắn gọn, phải đào thêm nữa, như thế này chưa đủ để treo cổ mình lên. Tôi nói nhanh trong hốt hoảng cha định chết – Có lẽ chỉ có cái chết cho cha, cha không muốn chết một cách khổ sở. Tôi ngồi im nhìn cha tôi đứng dán lưng vào vách hầm, mái tóc dài vuốt về phía sau, những sợi râu dài, đôi mắt nhắm lại, đôi má sị xuống như da mặt một người bị phù thủng… Trong bóng tôi nhờ nhờ tôi thấy cha tôi như đã chết bao giờ. Có phải tôi đang ở một bên người chết, có khi không phải là cha tôi nữa mà là một con ma nào đấy ? Tôi nghĩ tới một người bị căng lên vách ván và những cái đinh dài đóng khắp thân thể, hình ảnh của Chúa Cứu Thế trên thập tự giá… Tôi không hiểu được rằng chúng tôi đã đứng im như vậy trong bao lâu, mãi cho tới lúc tiếng cha tôi nói mới đưa tôi ra khỏi cơn mê chập chờn nhòa lẫn, những u tối chờn vờn quanh quất mù đục như bầu trời lúc gần tối trong những ngày mùa đông lạnh giá. Cha tôi ngồi trở xuống, ông lấy ra một cái bao, trong bóng tối nhưng tôi cũng nhận thấy một màu xanh thiên lý đã cũ, tôi nhận ra đó là một cái ruột tượng, cái bao dành cho đàn bà thắt lưng trong để tiền… Cha tôi vuốt thẳng cái bao trên hai tay dang ra đây là cái ruột tượng của mẹ con lúc còn sống, cha dùng để giấy tờ, con thấy không, nó có thể giúp cha chết được một cách êm ái. Vừa nói ông vừa quàng lên cổ, khoanh một vòng, cha tôi cầm lấy hai đầu và nói tiếp kể ra thì mình cũng có thể thắt cho chặt lại, nhưng cha sợ tới lúc mình thấy thương mình quá mà không đang tay. Cha thương cha nhiều hơn, cha muốn đào cho cái hầm nó sâu thêm. Con nghĩ thế nào khi thấy xác cha lạnh ? Tôi ngồi im, lúc sau mới nói con không trông đợi điều đó… Nhưng con nghĩ thế nào, cha ví dụ thế, khi con trở lại quê mà chung quanh, mọi người thân yêu đều đã chết hết, không ai còn biết tới con – con không tưởng tượng cho mình sống, con chờ đợi và sống với thực tại… 42/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Giọng cha tôi chợt như bị lôi cuốn vào một dĩ vãng cái lần vượt ngục ấy cha không thể quên, khi nhớ lại cha không hiểu sao mình đã thoát chết, làm cách nào mà mình lại có sức mạnh để nhảy qua được những chướng ngại vật, cha nghĩ, giá lúc đó mình chết thì thật tuyệt diệu, nhưng lúc ấy cha không nghĩ tới chết, cha nghĩ tới sống. 4 Người lớn tuổi nằm dài xuống chiếc ghế đá nhìn lên bầu trời, vầng trăng non thấp thoáng trên cành lá, người trẻ ngồi hút thuốc lá nhìn suốt theo con đường ra ngoài cổng bệnh viện, những đường kẻ trắng, hai bờ cây xanh thấp thoáng ngoài xa, không khí hoàn toàn im vắng. - Anh có trông đợi cha anh chết không ?Tôi biết có người trông cho người thân yêu chết, không phải là vô nhân đạo, chính là vì yêu thương quá mà không thể giúp đỡ được gì cho người đó. Như trường hợp anh… - Không, tôi không trông đợi điều đó, thực tình tôi muốn có một ông cha bình thường như mọi người, ông làm đồ chơi cho con cái, trong nom cho con học hành… anh có ước như tôi vậy không ? Tôi mong ước một cuộc sống bình yên giữa cha mẹ, anh em, anh nhớ không, không khí như trong sách Quốc văn giáo khoa thư vẫn tả với vẻ êm ấm của gia đình sum họp dưới ánh đèn… - Sau đó, cha anh treo cổ chết ? - Không, ông tiếp tục đào cái hầm cho sâu thêm. Thời gian, tôi muốn nói tới thời gian. Tôi đã không nói lại với anh một cách mạch lạc, cái đầu tôi nó nhiều khi cũng không còn thứ tự nữa. - Tại sao anh không đưa cha anh lên khỏi hầm ? - Sau này tôi cũng hỏi tôi như thế, nhưng khi tôi nhớ lại thì thực ra lúc đó, với những điều cha tôi nói về chính ông, và những điều chung quanh đã khiến tôi không thể làm điều đó. Anh hãy nhớ tới sự rình rập của du kích, sự có mặt của lính Tây. Như anh biết, cha tôi không muốn bị giết, nghĩa là không có nơi nào cho ông trừ cái hầm… - Ông có nghĩ là ông sẽ chết ở dưới đó không ? - Có lúc tôi nghĩ ông chọn cái chết cho ông, như anh đã thấy, nhưng đồng thời cha tôi cũng tin tưởng một cách mơ hồ rằng rồi cha tôi sẽ có hoàn cảnh để ra khỏi hầm, ông tin có những đổi thay, đổi thay khiến không có mặt cả hai phe mà ông đã không chấp nhận. 43/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Thực tôi không thể tưởng tượng được. Người lớn tuổi ngừng lại, chừng như có tiếng thở dài, trăng mỗi lúc một sáng hơn trong khu vườn cây xanh, không khí của một cõi sống êm ả, trăng mướt như một giải lụa huyền ảo. Người trẻ tuổi chống hai tay về phía sau, ngửa mặt lên trời - Trăng đẹp quá… Người lớn tuổi ngối trở dậy. Người trẻ tuổi đốt một điếu thuốc, mùi diêm sinh ngầy ngật, ánh lửa đỏ bệnh hoạn… - Tôi muốn được chết. Điếu thuốc cầm ra tay, ngụm khói thả lên bầu trời - Tại sao người ta không tự tử ? - Tôi muốn nói cách khác tại sao người ta sống ? - Anh thì có thể trả lời được, tôi thì không. - Anh đừng bắt tôi làm việc đó. Nhưng còn cha anh ? - Cha tôi không còn có thì giờ nữa. Anh hãy nhớ lại, như tôi đã nói, dù tuổi anh nhỏ hơn tuổi cha tôi, nhưng anh thực sự thuộc về thế hệ cha tôi, anh đã sống như cha tôi, lựa chọn như cha tôi, trô nổi từng ấy năm với những biến cố không ngừng, anh đã sống, hành động như mình nghĩ, tin tưởng, phải vậy không, cho đến nay anh vẫn còn muốn được sống, vậy thì anh, hơn ai hết có thể trả lời tại sao anh sống ? - Tôi sống. Vậy thôi, tôi không giải thích được. - Tôi không hiểu gì cả. - Vì anh không chịu sống. - Tôi mệt rồi, anh chẳng chịu nhìn thấy chúng tôi, những kẻ đang lang thang thất thểu đi tìm các anh, đi tìm các anh để hỏi các anh một điều… Người trẻ tuổi gập người xuống với cơn ho dữ dội, người lớn tuổi, một tay đỡ lấy ngực một tay giữ lấy lưng và vuốt ngực cho người bạn trẻ, điếu thuốc cầm trên tay rung theo với nhịp ho. Lúc người trẻ ngửng mặt lên, người lớn tuổi nhìn thấy đôi mắt ràn rụa những lệ, những giọt nước mắt như không ngừng lại với nhịp thở hối hả, trong ánh trăng xanh những giọt lệ long lanh chảy xuống theo hai gò má, da mặt nhợt nhạt hẳn đi, trong giây phút ấy người lớn tuổi cầm chặt tay người bạn trẻ. Giọng người trẻ yếu ớt 44/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Anh quên những điều lẩm cẩm đó đi, những điều vô nghĩa… Có điều, anh có hối hận không ? - Hối hận cái gì ? Người trẻ tuổi phác một nụ cười buồn như một nét vẻ nhoa nhếch trên chân dung một ông già bệnh hoạn - Xin lỗi anh, tôi muốn nói anh có hối hận là được sinh ra không - Không, tôi không hối hận. - Tôi thì có. Tôi ân hận. - Tôi chỉ ân hận mình đã không được sống như mình mong ước… Người trẻ tuổi đứng lên, bước ra xa một quãng, dang rộng hai tay, mặt nhìn lên trời, ánh trăng sáng chan hòa trên những giọt nước mắt ràn rụa, tiếng nói như lạc đi xa lạ - Nhân danh Đấng tối cao ta ban phép lành cho nhà ngươi… Trong ánh sáng xanh đục, người trẻ tuổi đứng im như một pho tượng đá, đầu ngả sang một bên, hai tay dang rộng, người lớn tuổi ngồi im nhìn lên, mỗi lúc kẻ đứng như một trôi xa thêm , tiếng nói một lúc như một vang vào trong cõi hư không, tiếng vang không ngừng va đi va lại như tiếng sóng rì rầm vỗ không ngừng vào một vách đá. Tôi nhìn thấy tôi như một pho tượng cát đang rã tan và loãng dần vào những lớp sóng đưa tôi vào trong lòng biển mênh mông… 5 Hai người cùng nhau bước dọc theo con đường chạy sát với bờ hiên cao, hành lang vắng người, buổi sáng đã bắt đầu, những đợt nắng mới lóng lánh trên những mặt lá ướt nhẫy sương đêm, trên thảm cỏ xanh, dưới gốc cây hoa sứ, mấy cánh hoa còn trắng tươi nằm rải rác. Tiếng sỏi kêu nhẹ dưới bước chân. Người trẻ nói - Trong đời có khi nào anh nghĩ là mình đã được trao tặng một bông hoa của hạnh phúc và ơn huệ. Người lớn tuổi ngửng lên, đôi mắt nhìn cười - Sau một chiến thắng tôi đã được trao tặng vòng hoa trên cổ. - Anh thấy hạnh phúc không ? 45/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Người lớn tuổi cười lớn - Hạnh phúc, thực ra anh mới là người lạc quan… - Sao vậy ? - Tôi chưa biết hạnh phúc nghĩa là gì. Tiếng thở dài, cơn gió lạnh thổi suốt qua đường hầm tối ám, tiếng rên rỉ một kẻ hấp hối trên cánh đồng mùa đông băng giá. - Chẳng lẽ anh đã không có một niềm vui riêng nào. - Chắc là có, nhưng nào nó có ý nghĩa gì nữa, nó như hột muối nhỏ. Tôi mơ hồ tưởng tới một cái gì, một… điều này khó nói. Được trao tặng một bông hoa, tôi chưa bao giờ biết tới. suốt bao thời gian, có lúc tôi thử tưởng tượng, hãy bám vào một cái gì đó, chẳng hạn như kỷ niệm để có thể nói đó là hạnh phúc đã mất, nhưng tôi cũng không thấy đó là hạnh phúc nữa, anh nghĩ coi, như thời thơ ấu của mỗi người, có phải, chính anh cũng đã từng tìm thấy bóng dáng của hạnh phúc một thời nào đó, sống với hạnh phúc đã mất, tôi không có. Kỷ niệm anh có thấy đó là một thứ đồ hộp không, nếu không thì cũng là một món ăn nguội, một thứ ướp nước đá… Tôi không muốn ăn những thực phẩm đó… Người lớn tuổi ngừng lại, chống chiếc nạng, cúi xuống bên hàng cây thấp ngăn lối đi với thảm cỏ, ngắt lên tay một cây nhỏ, người trẻ nói - Cây gì đó ? - Cây chua me. Người lớn tuổi đứng lên, giơ cây nhỏ lên tầm nhìn - Cây này nấu canh với cá rô nướng ngon lắm, anh được ăn bao giờ chưa, ở nhà quê có cái món rau tập tàng tôi thú lắm, lâu không còn được ăn nữa. - Tôi chỉ nhớ lá cây bánh khúc, anh biết không ? - Biết, nhưng ở đây đào đâu ra… - Tôi bỗng nhớ tới cánh đồng mùa xuân, rau khúc có vào mùa đó, anh nhớ không, ăn Tết xong, trời còn lạnh, những cánh đồng trơ gốc rạ, đất nứt nẻ, những cơn mưa bụi dịu dàng, rau khúc mọc trên những mặt đất nâu ẩm. Chính cha tôi đã nói cho tôi biết về thứ rau đó, tôi cũng ăn miếng bánh khúc thứ nhất trong đời đó với cha tôi, lúc bấy giờ mùa xuân… 46/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Giọng nói xa vắng, cánh đồng bát ngát, những chân rạ, từng cơn mưa bụi trắng, trong bếp lửa hồng, trong hầm tối ẩm, tiếng than thở của một dĩ vãng… Hai người bước tới phía trước, người lớn tuổi xoe cây chua me trên hai ngón tay, tới cuối dãy nhà, họ ngồi xuống bờ hiên, thỏng hai chân xuống sân. Giọng người trẻ ngậm ngùi - Tôi mong ông đã chết êm đềm như một giấc mơ… 6 Anh muốn nghe, vậy thì tôi kể tiếp cho anh nghe, thực ra tôi vẫn đang cố gắng dò tìm lại từ trong quá khứ một vài điều, những điều mà tôi nghĩ có thể giúp tôi tìm lại cho mình… tìm lại, anh có thấy là thảm không ? Một thứ đồ hộp, một món ăn nguội tích trữ, để dành, không, tôi không nghĩ như anh, quả thực quá khứ đối với tôi là một kho tàng. Làm sao để cho người ta sống không có quá khứ, cũng như làm sao để một người không có tâm sự. Quá khứ, cái nôi hồng của tuổi thơ, tôi được nó nuôi dưỡng. Ngày xưa, gần Tết tôi trở về nhà. Trở về, anh có thấy đó là một hạnh phúc không. Bây giờ thì chúng ta không có nơi để trở về nữa. Từ trên đường cái quan, tôi băng qua cánh đồng sau mùa gặt chỉ còn trơ những gốc rạ, con đường ruộng nhỏ ngoằn ngoèo, những búp cỏ non, những cánh chim bỗng vỗ cánh bay lên. Tôi nhớ vào buổi chiều, gió lạnh buốt, cánh đồng không có bóng người, chiếc quán nước giữa đồng với gốc cây đa cao quạnh hiu. Tôi nhìn về lũy tre xanh trước mặt, cây đa đầu làng, tôi hình dung tới ngôi nhà thân yêu nơi chú thím tôi đang sống, và ở đó cha tôi… phải nói cha đang sống hay đang chết ? Có lẽ không thể nói như thế. Ở đó cha tôi đang thở, ông đang thở, sau này tôi nghĩ chỉ có thế, ông không còn được sống như một người nữa, ông chỉ còn biết thở mà thôi. Tôi, lúc bấy giờ mơ tưởng, nếu như không có chiến tranh, mẹ tôi còn sống, hẳn trên đường về ấy tôi đã chạy thật nhanh, chạy băng trên những ruộng khô để sớm được ngồi trong bếp lửa ấm áp. Nhưng không, tôi buồn rầu bước từng bước ngắn nghe mình rời rã. Mong ước được trở về, nhưng sao tôi không thấy trọn vẹn. Anh thấy đó, có phải tôi tham lam không ? Trở về mái nhà xưa ngày cuối năm, chờ đón mùa xuân đến, có trở về nào hạnh phúc hơn thế, nhưng thực thế làm tôi đau lòng. Tôi lắng nghe tôi. Tôi đi hết con đường đất, hết cánh đồng khô, bước qua cổng làng để về tới ngôi nhà nơi tôi đã được sinh ra và ít năm thơ ấu ngắn ngủi mờ nhạt. Tôi nhớ tới những cái Tết ngày xưa. Tất cả đã được sửa soạn, cổng nhà quét môt nước vôi trắng mới, bàn thờ đã được lau chùi sạch sẽ, mấy đôi câu đối bằng giấy đỏ dán nơi cổng nhà, nơi cột hiên. Nơi bàn thờ đã có một đôi mía cao, có bình hoa và một mâm bồng đầy chuối, quít và bưởi… 47/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Anh nhớ không, cái không khí trong ngôi nhà thờ, vào một buổi trưa nào đó, anh ngồi trong ngôi nhà thờ một mình, dù không thắp hương, không đèn nến, nhưng anh vẫn thấy môt không khí thơm ngát và trang nghiêm thành kính, nơi chúng ta không dám động mạnh. Ngày cuối năm, chờ xuân đến, trong ngôi nhà thờ tôi càng cảm thấy một cái gì thiêng liêng, ấm cúng. Có phải những người chết quanh quẩn nơi đó. Từ chiếc sập gụ, từ cây đèn trét những sáp, tấm màn… tất cả như đều được ủ trong một hương thơm và thời gian đã mang đến cho nó những tâm sự. Tôi tưởng tượng nếu những vật kia nói với chúng ta, chúng ta sẽ được che lại cả một lịch sử. Tôi thấy thân thiết gắn bó với những đồ vật đó. Có phải vì chúng có bàn tay của mẹ tôi, bố tôi, ông bà tôi cầm vào, nhìn tới. Mẹ tôi cũng được thờ nơi đó, và cha tôi chết cũng sẽ được thờ nơi ấy, tôi nữa…những ngày giỗ tết, cỗ bàn dọn lên, thắp hai ngọn nến, đốt ba nén hương, lời khấn nguyện của con cháu. Nghĩ thế tôi cảm động. Kể lại cho anh về không khí trong nhà thờ để anh hiểu vì sao tôi mong ước trở về đó… Cha tôi vẫn ở dưới hầm, vâng, tôi đâu có quên, nhưng đâu có phải lúc nào tôi muốn gặp cũng được. Tôi phải chờ đợi… Tôi trở về, vâng, làng quê với những cây nêu cao, thấp thoáng những vuông giấy đỏ và những dọn dẹp trên đường đi, lối cổng vào nhà… Mọi người đón chờ, và có lẽ cũng như tôi, chúng tôi đón chờ một hy vọng vào đầu mùa xuân sẽ tới… Tôi đang nói tới ngày tết ở quê nhà, mùa xuân cuối cùng trên quê hương. Tất cả, bây giờ đã xa, đã khuất, đã chỉ còn là kỷ niệm, không phải là một món ăn nguội, thứ đồ hộp. Không phải thế. Chính là một thứ rượu, rượu càng lâu năm càng đậm, càng nồng. Đậm và nồng của một thứ rượu ngon nhưng cũng trở thành cay đắng. Phải, nhiều đêm không ngủ, liếm môi khô tôi tưởng như vị đắng và chát của quá khứ còn đọng trên đó, nhưng không phải, đó là nước mắt, tôi đã khóc thầm khi nhớ lại những gì của thơ ấu, ngày cha tôi và tôi còn ở trên quê hương. Tôi nói con định đưa cha đi, không thể chờ được nữa. Cha tôi lặng đi. Tôi nói tiếp cha không còn đào thêm cái hầm nữa. Cha tôi không nói. Ngày đầu năm ấy, mùa xuân cuối cùng ấy, tôi và cha tôi đã im lặng nhìn nhau… không có một tiếng nói nào thốt ra. Và đến bây giờ tôi vẫn còn im lặng lắng nghe… 7 Người trẻ tuổi đứng lên vươn vai thở mạnh, người lớn tuổi lặng thinh, nắng đã đầy trên khoảng sân cỏ hẹp, trời xanh và cao vút. - Lúc bấy giờ mùa xuân, tôi phân vân trăm ngả. Hết Tết, tôi băng qua cánh đồng trơ những gốc rạ, tất cả một màu trắng đục của mưa xuân, con đường đất trơn nhẵn,tôi nhìn chung quanh, chỉ có màu trắng đục mênh 48/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày mông, nỗi cô quạnh và buồn rầu. Giữa gió lạnh, không khí giá buốt, tôi tự hỏi mùa xuân đó sao ? Bây giờ tôi còn nhớ nhu in cái cảm giác ngày hôm dời quê với những băn khoăn về người cha. Có phải ông đang sống không ? Người lớn tuổi mồi một điếu thuốc. Người trẻ nhìn khói thuốc hay tản mạn… - Nhiều khi người ta chọn để trở thành người thất bại… Tôi muốn biết sau đó cha anh ra sao ? - Cha tôi ở lại dưới hầm tối đó. Một cái hầm tối trong một vùng dĩ vãng thăm thẳm. 1968 Giọt nắng Sau khi gặp tôi , người mà cô tìm kiếm , cô gái ngượng ngùng ngồi xuống chiếc ghế ở bên, vạt áo dài trắng được kéo lên phía trước, chiếc xắc tay bỏ trong lòng. Cô gái nói cám ơn tôi về bức thư đã nhận được. Cô giải thích về người quen của cô làm trong bệnh viện nơi tôi đang được điều trị, cô cũng cho tôi biết là cô vẫn thường vào trong này thăm người quen và có một lần theo những bạn bè vào đây ủy lạo những thương bệnh binh. Cô cũng không quên hỏi thăm tôi về gia đình, chừng như cô gái muốn biết tôi có người thăm nom hay không - Nhiều khi vào bệnh viện về tôi buồn mấy ngày, nhiều hoàn cảnh thật thương tâm, với lại, có bạn nói tôi giàu tình cảm. Tôi cười nói - Cô bạn của tôi cũng thế, cô ấy nhìn mọi người rồi nói với tôi sự ngạc nhiên, đây là phòng của những bệnh nhân nhẹ, chắc cô rõ. - Vâng, ở bên kia tiếng kêu khóc làm cho tôi phải bước đi thật nhanh, còn ở san bên kia, ông biết không, thuộc về khoa thần kinh. Tôi có biết một ông ở bên kia kìa, ông ta bị bom và thành câm. Cô gái nói và chỉ sang phía bên kia, dãy nhà cách một khoảng sân hẹp. Tôi cũng đã được nghe nói về những người bệnh ở đó. Thực có nhiều trường hợp không thể tưởng tượng được. Cô gái ngồi im nhìn quanh quất cả phòng bệnh những người nằm đứng, kẻ ngồi, tôi thấy có lúc cô gái ngừng lại rất lâu khi nhìn ra ngoài cửa 49/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày sổ, qua đó khoảng sân bệnh viện với nền cỏ xanh tươi. Cô gái quay trở lại, chợt cô nhìn về phía cuối - Kìa, ông hãy nhìn kìa. Ông đã thấy rõ ông ta chưa, trông cái miệng của ông ta kìa, đang máy máy, ông ta lại đang nói với ông ta đó, chỉ ông ta nghe thấy, hôm trước ông ấy mới cào mặt đó,còn những vết xước, thật tội nghiệp, ông ta đỏ mặt lên đầy tức tối, chân tay múa may rồi đập tay lên đầu và cuối cùng lại ông ta cào lên mặt như một người điên, nước mắt ràn rụa… Ông bác sĩ đã phải cùng với người y tá giữ ông ta lại, chích thuốc cho ông ấy ngủ… Đây là lần thứ sáu rồi, người ta tìm cách cho ông ta nói được, nhưng vô hiệu, lần trước người ta đã chích thuốc, ông ta cầm một cái chai ở bên đánh vào đầu đến chảy máu, ông ầy bị bom… vâng bị bom, đã sáu tháng nay rồi, người hoàn toàn khỏe mạnh nhưng không nói được , người ta cố gắng giúp ông ta tìm lại tiếng nói nhưng chưa có kết quả… Ông bác sĩ vẫn hy vọng, bây giờ ông ta viết, nghe được mà nói không được, ông thấy không, trời thường sinh điếc và câm với nhau, ở đây câm mà không điếc mới tội chứ… Người đàn ông vẫn ngồi im chỉ có miệng mấp máy, đôi mắt ông nhìn mông ra khoảng sân cỏ ngoài cửa sổ, tôi nhìn thấy những vết xước trên mặt ông và mấy miếng băng keo dán nơi gò má, ông ta có một dáng hình khỏe mạnh, hai cánh tay trần với làn da trắng mịn và đẫy. Cô gái nói - Ông thử tượng tượng nếu ông cũng mất tiếng nói như ông ta ? Tôi nhìn cô gái, những sợi tóc mai dài, lông măng còn mượt nơi mang tai, nơi cổ - Nếu phải chọn tai họa không chống được có lẽ tôi ưng điếc hơn câm. Thế còn cô ? hỏi có vẻ dại dột… - Tôi không ưng gì cả, tàn tật là oan nghiệt. Thế giữa điếc và mù ông chọn cái nào ? - Điếc. - Thế giữa mù và câm điếc thì ông ưng cái nào ? - Câm và điếc, không chịu được mù… Cô gái bỗng cười ngặt nghẽo, đôi má ửng đỏ với lúm đồng tiền duyên dáng, tôi thấy hai chiếc răng khểnh của cô gái. Chợt cô gái nghiêm nét mặt, giọng dịu dàng - Xin lỗi ông, tôi nghĩ lẩn thẩn quá, thế ông bị thương ở đâu vậy ? 50/95 Bạn đã bao giờ nhìn lên bầu trời trong khi quan sát đám mây và tự hỏi chính xác những đám mây trên mặt đất trôi nổi như thế nào? Chiều cao của một đám mây được xác định bởi một số yếu tố, bao gồm loại mây và mức độ ngưng tụ xảy ra tại thời điểm cụ thể đó trong ngày điều này thay đổi tùy thuộc vào điều kiện khí quyển là gì. Khi chúng ta nói về độ cao của đám mây, chúng ta phải cẩn thận vì nó có thể có nghĩa là một trong hai điều. Nó có thể đề cập đến độ cao trên mặt đất, trong trường hợp đó nó được gọi là trần mây hoặc cơ sở đám mây . Hoặc, nó có thể mô tả chiều cao của chính đám mây - khoảng cách giữa chân đế và đỉnh của nó, hoặc "cao" như thế nào. Đặc điểm này được gọi là độ dày của mây hoặc độ sâu của mây . Định nghĩa trần đám mây Trần mây là độ cao trên bề mặt trái đất của tầng mây hoặc của tầng mây thấp nhất nếu có nhiều hơn một loại mây trên bầu trời. Trần vì nó là Các đám mây thấp, bao gồm mây tích và mây, có thể hình thành ở bất kỳ đâu từ gần bề mặt lên đến mét feet. Các đám mây giữa hình thành ở độ cao đến mét đến ft trên mặt đất gần các cực, đến mét đến ft ở vĩ độ trung bình và đến mét đến ft ở vĩ độ vùng nhiệt đới. Các đám mây cao có độ cao cơ bản từ đến mét đến ft ở vùng cực, đến mét đến ft ở vùng ôn đới và đến mét đến ft ở vùng nhiệt đới. Trần mây được đo bằng một công cụ thời tiết được gọi là máy đo độ cao. Máy đo điện áp kế hoạt động bằng cách phát ra một chùm tia sáng laser cường độ cao lên bầu trời. Khi tia laser di chuyển trong không khí, nó gặp các giọt mây và bị phân tán trở lại bộ thu trên mặt đất, sau đó tính toán khoảng cách tức là chiều cao của nền đám mây từ cường độ của tín hiệu trả về. Chiều cao của đám mây, còn được gọi là độ dày của đám mây hoặc độ sâu của đám mây là khoảng cách giữa nền hoặc đáy của đám mây và đỉnh của nó. Nó không được đo trực tiếp mà được tính bằng cách trừ độ cao của đỉnh của nó với độ cao của đế. Độ dày của đám mây không chỉ là một số thứ tùy ý - nó thực sự liên quan đến lượng mưa mà một đám mây có thể tạo ra. Mây càng dày thì lượng mưa rơi từ đó càng nặng. Ví dụ, các đám mây vũ tích, nằm trong số những đám mây sâu nhất, được biết đến với những cơn giông bão và những trận mưa như trút nước trong khi những đám mây rất mỏng như mây ti hoàn toàn không tạo ra bất kỳ lượng mưa nào. Thêm Mây "có mây một phần" như thế nào? Báo cáo METAR Trần mây là điều kiện thời tiết quan trọng đối với an toàn hàng không . Bởi vì nó ảnh hưởng đến khả năng hiển thị, nó xác định liệu phi công có thể sử dụng Quy tắc bay trực quan VFR hay phải tuân theo Quy tắc bay dụng cụ IFR thay thế. Vì lý do này, nó được báo cáo trong METAR MET eorological A viation R eports nhưng chỉ khi điều kiện bầu trời bị phá vỡ, u ám hoặc bị che khuất. Trời cao đất rộng thênh thang Tiếng hò giọng hát ngân vang trên đồng, Cá tươi gạo trắng nước trong, Hai mùa lúa chín thơm nồng tình quê. MỤC LỤC Lời Tựa 1. Một Ngày Để Khóc 2. Ngày Giỗ Đầu của Gabriel 3. Hồn Thiếu Nữ Tối Lễ Độc Lập 4. Ai Làm Nên Nỗi? 5. Nhiều Nỗi Truân Chuyên 6. Máy Điện Toán và Tôi 7. Giả Ngu Tìm Bọ 8. Vẫn Chiến Đấu Âm Thầm 9. Lý Lẽ của Trái Tim 10. Thà Chịu Tiếng Lầm Đường 11. Còn Đáng Mặt Đàn Ông 12. Người Mẹ Đi Ăn Mày 13. Thảm Kịch Gia Đình 14. Tấm Gương Hiếu Thảo 15. Như Trong Niềm Nhớ 16. Người Bơi tới Thiên Đường 17. Trời Cao Đất Dày 18. Như Truyện Kiếm Hiệp 19. Bừng Con Mắt Dậy 20. Đời Cô Lệ 21. Nhìn Quá Khứ, Đoán Vị Lai 22. Bỏ Thì Thương, Vương Thì Tội 23. Về Tắm Ao Ta 24. Chuyện Ngu Thứ Năm Tiểu sử Nguyễn Ngọc HoaLỜI TỰA Cuối năm 2012, hơn chín năm trước, chúng tôi đặt ra cho mình một dự án văn chương khiêm nhường viết truyện ngắn để kể lại cho bạn bè nghe những câu chuyện của một quãng đời xa xưa và trau giồi Việt ngữ sau những năm dài sống xa quê hương. Mặc dù cuốn Trời Cao Đất Dày Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa VIII trên tay quý bạn đã đánh dấu một đoạn đường khá dài gồm ngót hai trăm truyện ngắn, mục tiêu ban đầu của chúng tôi vẫn không thay đổi. Mỗi truyện ngắn là một tác phẩm riêng lẻ đặt liên hoàn với các truyện khác theo thứ tự thời gian, nhưng toàn thể tám cuốn Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa I, II, III, IV, V, VI, VII, và VIII phổ biến và ấn hành từ năm 2013 đến nay không hẳn là một trường thiên tiểu thuyết. Nhớ chuyện cũ đến đâu, chúng tôi viết đến đó chứ không sắp đặt trước bố cục, nội dung, hay nhân vật như các tác giả viết truyện dài. Các truyện ngắn trong tập truyện này đã được phổ biến dưới tiêu đề “loạt truyện Theo Ngọn Mây Tần” – lấy từ câu “Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa” trong truyện Kiều – kể lại những câu chuyện chúng tôi trải qua, chứng kiến, hay nghe thuật lại khoảng cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, khi cố gắng hòa nhập với đờisống Hoa kỳ nhưng vẫn hướng về quê hương yêu dấu. Để tránh ngộ nhận đáng tiếc, chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa Tác phẩm của chúng tôi không phải là hồi ký, tự truyện, hay tài liệu ghi lại dữ kiện lịch sử. Nhân vật xưng "tôi" được dùng làm nhân chứng thuật lại chuyện cũ, không phải chính tác giả. Mọi nhân vật khác đều được dựng nên và tiểu thuyết hóa cho phù hợp với chuyện kể, xin đừng liên kết với bất cứ nhân vật nào ngoài đời. Chúng tôi xin cám ơn các thân hữu đã góp ý, phê bình, và chỉnh sửa cũng như đã khích lệ chúng tôi trong việc sáng tác. Xin được kể tên vài người là các chị Lưu Phương Lan nhà văn Phương Lan và Trần Thùy Mai nhà văn và các anh Nguyễn Trọng Dzũng, Nguyễn Đình Hiếu, Nguyễn Nhật Hoàng báo Trẻ, Nguyễn Thanh Hoàng nhà văn Phan Hạnh, Nguyễn Xuân Phong, Nguyễn Khắc Phụng, Châu Hiền Quang nhà thơ Kiều Phong Toronto, Nguyễn văn Sâm, Nguyễn Thiệp nhà văn Tràm Cà Mau, Nguyễn Xuân Thiệp nhà thơ, và Nguyễn Công Thuần. Chúng tôi cũng cám ơn tiện nội là kịch tác gia, nhà văn, và đạo diễn Nguyễn thị Minh Ngọc đã thương yêu tạo điều kiện cho chúng tôi sáng tác và xuất bản tác phẩm đã viết. Chúng tôi hy vọng, trong một tương lai không xa, sẽ có cơ hội ấn hành và ra mắt độc giả Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa IX đang được phổ biến dưới tiêu đề “loạt truyện Nhận Làm Quê Hương.” Mời quý bạn đón xem. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày Hạ chí 2022 21-06-2022Một Ngày Để Khóc Mùa xuân đến gần sáu tuần nay, nhưng buổi sớm mai trời North Dakota còn se lạnh. Tôi ra khỏi nhà đi làm mà lòng bồi hồi rưng rưng, con đường đến sở dường như không còn quen thuộc như mọi ngày vì trong tâm tưởng, tôi đang sống lại những kỷ niệm buồn đau. Ngày này, 30 tháng Tư, đúng một năm trước đây 1975, lúc mười giờ rưỡi sáng, trên chiếc chiến hạm Hải quân di tản đến hải phận quốc tế ngoài khơi Vũng Tàu, tôi đã khóc và hát bài quốc ca Việt nam Cộng hòa “VNCH” một lần cuối khi lá cờ vàng ba sọc đỏ từ từ hạ xuống kỳ đài, Này công dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi. Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống. Đêm qua tối thứ Năm, tôi thức khuya gọi điện thoại nói chuyện với thằng Tú, người bạn thương phế binh thân thiết đang dạy học ở Rockford thuộc tiểu bang Illinois; gọi viễn liên sau 11 giờ đêm giá rẻ hơn ban ngày và buổi tối, tỉ tê chuyện cà kê dê ngỗng đỡ ngại cháy túi. Hai thằng vừa khóc vừa cười nhớ lại chuỗi ngày tuyệt vọng thương đau dẫn tới biến cố đổi đời “bỏ nước ra đi” và nhắc nhở những chuyện vặt về thằng Song, bạn cùng lớp và cũng là bạn thân nhất của tôi ở trường kỹ sư bây giờ sống khốn khó ở Việt nam. Tôi chơi với thằng Tú vì nó là bạn thời trung học Pleiku của thằng Song. Bạn của bạn mình đương nhiên là bạn mình; ngày đó, chúng tôi quan niệm đơn giản như thế. Qua giọng nói của thằng Tú, tôi cảm thấy dường như có điều gì ẩn khuất mà nó chưa nói ra. Cuối cùng, nó bật lên hỏi, cố nén nước mắt, “Mày còn nhớ thằng quỷ An không nhỉ?” “Mày què chân chứ đầu óc có cùn đâu mà hỏi gì kỳ vậy? Trong bọn mày – đám khỉ cùng đàn với thằng Song từ Pleiku xuống, mày thân với tao nhất, nhưng thằng An là đứa dễ thương tao khoái nhất.” Trong nhóm bạn thằng Song, thằng An người Huế gặp hoàn cảnh khó khăn hơn cả. Năm cả bọn học đệ nhất lớp 12 trường trung học Pleiku, cha nó mất, và cuối năm nó thi rớt Tú tài II. Trong lúc bạn về Sài gòn học đại học, nó lớn nhất nhà, trở thành cột trụ gia đình, và đưa mẹ và bốn đứa em xuống Mỹ Tho ở nhờ nhà người chú họ và tìm kế sinh nhai. Nó có ba cô em gái kế tiếp nhau, cô kế nó là Lệ Quỳnh kém nó một tuổi, và cậu em trai út lên mười. Tôi gặp nó lần đầu khi đi theo thằng Song từ Sài gòn xuống Mỹ Tho thăm nó, cả gia đình sáu người sống chen chúc trong căn phòng chật chội, và nó phải đưa tôi và thằng Song ra ngoài công viên gần nhà nói chuyện. Thằng An cao lớn, dễ đến hơn một thước bảy, mặt mày trắng trẻo hiền hậu, và đặc biệt nụ cười dễ mến. Lần thứ hai tôi theo thằng Song đi thăm nó thì nó và gia đình ở Vũng Tàu, thành phố du lịch nổi tiếng đời Pháp thuộc dưới tên “Cap Saint Jacques” và nay có nhiều căn cứ quân sự Hoa kỳ. Thằng An giải thích lý do dọn về đây,“Mạ tao và con Quỳnh mua bán hàng Mỹ nhảy dù từ trong Pi-Ếch PX ra. Mạ tao giỏi mà cả và con Quỳnh rành tiếng Anh hiểu rõ mặt hàng nên gia đình đủ ăn. Chiều chiều tao mướn xích-lô chở mấy thằng lính Mỹ chạy chơi vòng vòng để kiếm thêm địa tiền.” “PX” hay “Post Exchange” là cửa hàng Quân Tiếp vụ Hoa kỳ. “Mày giỏi dữ há?” thằng Song khen nhẹ nhàng. “Tụi lính Mỹ trẻ tuổi, cỡ bằng tụi mình, rất thích ngồi xích-lô đi hóng mát và coi thành phố. Mấy anh đạp xích lô thường ốm đói, tụi Mỹ thấy tội nghiệp nên rất ngại đi xe. Nếu đi thì tụi nó biểu anh phu xe ngồi vào ghế đằng trước, để nó ngồi trên yên phía sau đạp xe. Khách Mẽo giành nhau đi xe tao vì tao đô con, tụi nó không ngại. Tao lại biết tiếng Anh nói xí xô xí xào, chỉ trỏ nơi nọ nơi kia.” “Mày định làm nghề xô xích-le xe xích-lô này đến bao giờ?” thằng Song ái ngại. “Tao rán sao có được nhiều tiền để lại cho mạ tao và con Quỳnh trước khi đi vào quân trường. Vì thi hỏng mất rồi ta đợi ngày đi,” thằng An thản nhiên trả lời. Thế rồi thằng An bị gọi nhập ngũ vào trường Bộ binh Thủ Đức, ra trường tình nguyện đi Nhảy Dù, và học nhảy dù ở trung tâm Huấn luyện Nhảy Dù trong trại Hoàng Hoa Thám, nơi đặt bản doanh bộ tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù, trên đường Lê văn Duyệt nối dài quá Ngã Tư Bảy Hiền chừng một cây số. Ngày nó ra đơn vị là Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù, thằng Song và các bạn cũ đã rời khỏi Sài gòn, chỉ còn mình tôi ở đây. Khi được nghỉ phép về Sài gòn, thằng An luôn luôn ghé lại tôi trước khi đi Vũng Tàu thăm nhà. Đời lính bất thường, nó đến tìm tôi vào những lúc bất ngờ nhất. Có lần nó xuất hiện trước cửa giảng đường trong lúc tôi chăm chú dạy học. Một lát sau, thấy sinh viên xì xào nhìn ra cửa, tôi nhìn ra thấy nó đứng nghiêm ưỡn ngực chào như chào kính thượng cấp không biết từ lúc nào. Tôi chìa tay ra hiệu mời nó vào ngồi ở cuối giảng đường và tiếp tục giảng bài cho đến hết giờ dạy. Một lần khác, khi sinh viên học sinh Sài gòn ồn ào xuống đường biểu tình chống chính phủ, đơn vị thằng An bị điều động về giữ an ninh đô thành, đề phòng Việt Cộng lợi dụng tình thế bất ổn để tấn công. Nó đóng quân trên đường Hòa Hưng đi vào khám Chí Hòa và cho người tìm tôi báo tin. Trước khi đến với thằng An, tôi vào Chợ Lớn mua vịt quay và cơm chiên Dương Châu để ăn chiều với bạn. Khi tôi đến, thằng An đang cắt đặt canh gác trạm phòng thủ tạm thời dựng lên bằng bao cát chất cao ngang ngực ở các góc đường. Nó vui vẻ chào tôi như thường lệ rồi biểu anh tà lọt lính cận vệ giúp việc vặt cho sĩ quan chỉ huy đem vịt quay và cơm chiên chia đều cho anh em; tôi và nó cũng có một phần và cùng ăn phần cơm gạo sấy với lương khô như mọi người. Gạo sấy là gạo đã được nấu chín và rút hết nước, khi dùng chỉ cần đổ nước sôi hay nước lạnh vào cho gạo nở thành cơm. Mới lãnh lương túi còn rủng rỉnh, tôi mua bia ở hai chiếc xe sinh tố gần đó và nhờ mang ra đãi trung đội thằng An. Nó cho phép quân nhân không có nhiệm vụ canh gác uống, nhưng ra lệnh uống ít để đừng say sưa. Sau khi giao nhiệm vụ cho anh trung sĩ nhất trung đội phó, nó cùng tôi ngồi bệt ở lề đường uống bia và nhìn xe cộ và khách bộ hành qua lại. Gần khuya, tôi hỏi bạn, “Đêm nay mày ngủ đâu?”“Hàng hiên nhà người ta đó. Tao đã xin phép chủ nhà, thằng tà lọt quét dọn sạch sẽ rồi,” nó đưa tay chỉ ngôi nhà gần đó. “Mẹ nó . . .” tôi tức tối giùm bạn. “Dân nhà binh đi hành quân nằm bờ ngủ bụi là thường, mày thắc mắc làm chó gì cho mệt. Tao chỉ mong tối nay Việt Cộng không đánh vào đây.” Tôi tiếp tục uống bia với thằng An đến sau giờ giới nghiêm rồi ngủ lại dưới hàng hiên với nó. Sáng hôm sau tôi thức dậy, anh tà lọt bưng nước đến mời “ông thầy” rửa mặt. Anh gọi tôi là “ông thầy” vì tôi làm thầy giáo, khác với “ông thầy” gọi thằng An là cấp chỉ huy, là ông sếp nhà binh. Trong số các bạn tôi, thằng An là đứa hiền lành nhất, mặc dù nó là một sĩ quan Nhảy Dù cao lớn và dáng dấp bên ngoài có thể làm bất cứ ai khiếp đảm. Tôi chưa nghe người lính mũ đỏ này chửi thề, tìm cách dọa nạt ai, hay kể chuyện bắn giết ngoài trận địa. Không như những sĩ quan hào hoa “anh là lính đa tình” khác, nó không hề nói về một mối tình nào khác hơn tình yêu thiết tha đối với một cô giáo dạy tiểu học ở Vũng Tàu là bạn thân của Lệ Quỳnh em nó. Mỗi lần chia tay với thằng An là một lần tôi lo đứt ruột, thầm mong Trời Phật phù hộ cho nó được an lành. Đầu năm 1971, suốt hai tháng tôi hồi hộp lo lắng theo dõi tin tức cuộc hành quân Hạ Lào hay chiến dịch Lam Sơn 719. Nó trở về với chiếc lon trung úy vinh thăng ngoài mặt trận và tấm anh dũng bội tinh với nhành dương liễu, nhưng nụ cười héo hắt. Anh dũng bội tinh là huy chương tưởng thưởng cho quân nhân lập chiến công và đi kèm theo bản tuyên dương công trạng. “Với nhành dương liễu” là tuyên dương công trạng trước quân đội – cấp cao nhất; sau đó lần lượt đến cấp quân đoàn với ngôi sao vàng, cấp sư đoàn với ngôi sao bạc, và cấp trung đoàn hay lữ đoàn với ngôi sao đồng. Sau các trận đánh khốc liệt của Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, thằng An trở lại, cười rạng rỡ với ba bông hoa mai vàng trên cổ áo và cái huy chương mới trên ngực trái. Từ đầu năm 1974, nó bị điều động đi liên miên ra chiến trường khắp bốn vùng chiến thuật và không có thì giờ đi phép về Sài gòn. Tôi chỉ biết loáng thoáng nó còn sống nguyên vẹn hình hài và đã lên thiếu tá. * * * Khác với mọi khi, thằng Tú bị tôi mắng mà không phát cáu hay mắng trả. Nó rầu rầu, “Đầu óc tao chưa cùn nên vẫn nhớ ngày Sài gòn hai thằng mày gần gũi với nhau. Vì mày là thằng mít ướt tình cảm như đàn bà con gái nên tao phân vân không biết có nên cho mày hay không.” “Thằng què này, mày có tin thằng An mà định giấu tao sao hả? Hay là nó chết cha nó rồi?” tôi nóng lòng hỏi tới. “Ừ, nó chết cha nó rồi . . .” thằng Tú lạc giọng. “Khi nào? Sao lâu nay mày không nói gì cả?” tôi la lên thật lớn. “Tao mới hay tin hôm kia thôi. Con Quỳnh em nó viết thư cho người bà con bên Gia Nã Đại nhờ tìm cách nhắn lại với tao. May sao người đó lại quen thân với bà chị lớn của con Phụng vợ tao chị còn ở Việt nam,” nó nhăn nhó giải thích rồi chậm rãi thuật ngày 30 tháng Tư, thằng An không chịu đi trình diện “học tập cải tạo” vì biết chắc một thiếu tá Nhảy Dù VNCH với tội “mang nợ máu với nhân dân” sẽ không sống sót nổi trong trại tù hà khắc tàn khốc của Việt Cộng. Nó liên lạc với một số bạn cựu đồng ngũ không đi trình diện như nó và mưu toan lập lực lượng đi vào rừng kháng chiến. Mộng lớn không thành, nó theo người lính cận vệ thân tín thương nó như anh ruột, về quê anh ta là một làng đánh cá ở Phước Tuy ẩn nhẫn trốn tránh, và làm ngư phủ để vừa nuôi thân vừa che mắt nhà cầm quyền mới. Là chiến binh từng vào sinh ra tử và quen tìm đường sống trong chỗ chết, thằng An và các bạn tin rằng ở hải phận quốc tế ngoài khơi Việt nam, hàng ngày có hàng trăm thương thuyền ngoại quốc đi lại, chưa kể các tàu tuần tiễu của Đệ thất Hạm đội của Hải quân Hoa kỳ. Chỉ cần liều chết đi ra đó chờ xin tiếp cứu, thế nào cũng được vớt ra khỏi địa ngục trần gian mà nghệ sĩ Trần văn Trạch 1924 - 1994 tóm tắt bằng câu nói đơn giản "Ở Việt nam, cái cột đèn cũng muốn ra đi." Cùng lắm là vùi thân vào bụng cá, xem như chọn nhằm cửa tử thần! Cơ hội đến vào mùa biển động cuối tháng Hai, “công an biên phòng” lơ là canh phòng vì ỷ y không ai dám “vượt biên” trong mùa này. Thằng An cùng một số cựu quân nhân VNCH khác lên đường ra khơi. Không ai biết chuyện gì xảy ra sau đó. Chỉ biết vào khoảng mười ngày sau, trong cơn thịnh nộ của biển cả, xác vỡ của chiếc thuyền đánh cá cùng với thân xác của chừng 20 thanh niên bị sóng đánh tấp vào bãi biển làng Phước Hải gần Vũng Tàu, cách nơi khởi hành khoảng 20 cây số về phía nam. Ở đầu dây bên kia, thằng Tú khóc tấm tức, “Dân làng tìm thấy xác của đám người ra đi, khi thủy triều đang dâng lên. Không nỡ để cơn sóng kéo xác ra biển trở lại, họ liền trói’ xác vào thân cây trên bãi để giữ lại chờ thân nhân đến nhận.” “Tại sao phải trói’?” tôi ngạc nhiên tột bậc. “Thực ra là buộc xác vào thân cây, nhưng con nước ròng quá mạnh nên phải gô trói chặt xác lại mới giữ được.” Lòng tôi quặn đau, hai hàng nước mắt chảy dài trên má. An ơi, tao nhớ mày quá sức. Nhớ câu “Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu” Có say nằm nơi sa trường bạn cũng đừng cười trong “Lương Châu từ” hay khúc hát Lương Châu của Vương Hàn thời Thịnh Đường mà mình ngâm nga với nhau trong đêm ngủ hàng hiên trên đường Hòa Hưng. Thằng Tú nói tao mít ướt nên tao thương mày mà không khóc. Để dành nước mắt khóc cho đất nước mình. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 17 tháng Ba, 2021Ngày Giỗ Đầu của Gabriel Hôm nay thứ Sáu, buổi sáng tôi đi làm mà lòng thấy rộn ràng. Trước mặt là cuối tuần dài nghỉ lễ Chiến sĩ Trận vong truy niệm vào ngày thứ Hai cuối cùng của tháng Năm. Sau Tết tây, đó là ngày nghỉ lễ đầu tiên của tôi trong năm. Tôi và mấy người bạn Việt đã dự trù một chương trình “ăn chơi” cho bõ . . . những ngày mùa đông cơ cực. Chúng tôi sẽ kéo nhau cả đoàn đi câu cá, picnic, và cắm trại ngoài hồ rồi ghé thăm nông trại của vợ chồng Phượng và Dean để người lớn bắt gà “đi bộ” làm thịt ăn nhậu và trẻ em chạy chơi ngoài đồng. Miên man nghĩ tới cuối tuần vui vẻ sắp tới, bất giác tôi thấy yêu đời vừa đi vừa hát nho nhỏ, Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về Gọi hồn liễu rũ lê thê, gọi bờ cát trắng đêm khuya. Trịnh Công Sơn – “Biển Nhớ” Bỗng một thiếu nữ đậu xe bên kia đường, chạy băng qua, và niềm nở như thường lệ, “Chào anh Ba Hoa, anh khỏe không? Hình như anh có gì vui lắm?” Nàng là Laurie làm kế toán viên nha Kế toán ở lầu ba, hàng ngày đi làm đậu xe tại chỗ này, và thường gặp tôi vào giờ này. Nàng độ hai mươi ba, hai mươi bốn tuổi, xinh xắn và hoạt bát, và luôn luôn vồn vã bắt chuyện khiến tôi có cảm tưởng nàng thân mật với tôi hơn là với một người bạn cùng sở thông thường. Hôm nay bị bắt gặp đang lẩm bẩm hát, tôi đâm ra bối rối, “Chào cô Laurie. Có gì đâu, tôi nói chuyện một mình ấy mà.” “Nói chuyện một mình chắc ăn nhất, họ’ không bao giờ nói trả lại,” nàng cười thông cảm, “Tôi cũng hay hát một mình, họ’ không bao giờ chê tôi hát dở hay bực bội khi tôi bỏ dở nửa chừng vì quên phần bài ca còn lại.” “Mặc dù người Việt có câu hát hay không bằng hay hát,’ tôi bị bà vợ cấm không cho hát ở nhà, ngay cả trong lúc đi tắm, vì sợ cậu con nhỏ nghe được. Tôi hát dở ẹt mà ít khi nhớ rõ lời bài hát nên cứ hồn nhiên hát nhại thành lời nhảm nhí. À, thế phân nửa tuyệt vời hơn của cô đâu?” tôi nhân tiện hỏi dò; “phân nửa tuyệt vời hơn” your better half là từ ngữ dùng ám chỉ vợ hay chồng, hay ngườisống chung như vợ chồng, của người đối diện. “Trước khi gặp anh sáng nay tôi tính sẽ gọi điện thoại mời anh đi uống cà-phê vào giờ nghỉ giải lao, và sẽ hỏi anh một chuyện. Anh đi nhé, lúc đó tôi sẽ trả lời câu hỏi của anh.” Tôi nhận lời không do dự; khi đến sở, Laurie hẹn gặp lại ở tiền đình ngay cửa ra vào. Lời mời bất ngờ của nàng khiến tôi bâng khuâng nhớ lại câu chuyện “bị bà Mỹ đẹp tuyệt vời tấn công” một anh bạn độc thân sang đây một mình kể đi kể lại khi ngà ngà say trong các buổi nhậu cuối tuần. Câu chuyện được cho kết thúc bằng màn anh bạn lắc đầu quầy quậy, từ chối “hảo ý hiến dâng của bà Mỹ,” nhưng ai cũng biết anh là kẻ thích khoác lác một tấc lên tới trời. Laurie chờ sẵn dưới nhà và cùng tôi đi bộ ra café cách sở chưa tới hai khu phố. Mặc dù từ tiếng Pháp có nghĩa là cà-phê, “café” trong tiếng Anh là quán ăn nhỏ bán cả đồ ăn lẫn thức uống, thực đơn có giới hạn, và món ăn tương đối đơn giản và giá phải chăng. Người Mỹ gọi quánchuyên bán cà-phê là “coffeehouse.” Đặc biệt ở các quán ăn vùng miền bắc Hoa kỳ, khi gọi càphê, khách uống bao nhiêu cũng được, không giới hạn, và nhà hàng không tính tiền thêm. Sau khi chúng tôi rót cà-phê vào tách và uống ngụm đầu tiên, nàng hỏi, “Cuối tuần này anh chị có chương trình làm gì chưa?” “Chúng tôi và vài người bạn định đi câu cá và cắm trại đến chiều Chủ Nhật, sau đó ra nông trại thăm vợ chồng một người bạn khác, và ở lại chơi cho đến hết chiều thứ Hai.” “Vậy thì tôi chậm chân một bước, tiếc quá. Thôi để tôi trả lời câu hỏi của anh trước Tôi sống một mình ở apartment để đi làm và không có phân nửa tuyệt vời hơn nào cả. Tôi độc thân’ từ khi Gabriel đi lính qua Việt nam và không hề trở lại,” giọng nói trầm xuống và đôi mắt buồn tênh, nàng kể lại về người tình thời trung học nay không còn trên cõi đời. Gabriel và Laurie ra đời cùng năm trong hai gia đình nông gia ở kế cận nhau. Chơi với nhau từ lúc chưa biết nói, hai đứa trẻ đi học trên cùng một chuyến xe buýt vào trường trong thành phố, học cùng lớp cùng trường, và buổi tối sang nhà nhau cùng làm bài. Đến năm cuối trung học, tình yêu của họ lớn mạnh và được hai gia đình chính thức chấp nhận, đôi bạn bắt đầu tính chuyện tương lai Họ sẽ đi Fargo, thành phố lớn nhất của North Dakota, học trường North Dakota State University NDSU. Gabriel sẽ học ngành canh nông vì trường canh nông NDSU có tiếng, và Laurie theo đuổi ngành kế toán vì nàng thích làm việc với con số. Theo truyền thống của dân chúng vùng này, họ sẽ làm đám cưới trước khi tốt nghiệp để khi ra trường đi làm sống chung dưới mái ấm gia đình của riêng mình. Dự định của đôi tình nhân trẻ tan vỡ vì cuộc chiến tranh Việt nam. Thay vì vào đại học để được hoãn dịch, Gabriel tình nguyện nhập ngũ. Chàng giải thích với người yêu, “Học đại học và lập gia đình có thể hoãn lại vài năm, nhưng bổn phận chiến đấu bảo vệ lý tưởng tự do chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản không thể trì hoãn.” Laurie đi học NDSU một mình, lần đầu tiên đến trường không có Gabriel. Chàng được gửi sang Việt nam một ngày đầu xuân 1970, hăng say chiến đấu, viết thư về nhà hàng tuần, và tường thuật về đời sống quân ngũ – vất vả nhưng rất bổ ích. Chàng yêu mến đất nước có cảnh trí tuyệt đẹp và dân chúng hiếu khách đến không ngờ ấy. Hai năm sau, trước khi cuộc chiến trở nên sôi động vào mùa hè năm 1972, chàng tái đăng phục vụ thêm một nhiệm kỳ nữa, và đơn vị chàng di chuyển về đóng gần Tây Ninh. Giữa tháng Sáu năm 1972, trong một chuyến tuần tiễu, tiểu đội của Gabriel bị Việt Cộng phục kích, và chàng bị bắt dẫn đi mất tích. Gia đình chàng và Laurie hy vọng Gabriel sẽ được trao trả theo quy chế tù binh của Hiệp định Paris 1973, nhưng rồi thất vọng ê chề vì chàng vẫn bặt vô âm tín. Họ cố bám víu vào niềm tin Gabriel còn sống và mong chờ một ngày nào đó chàng sẽ trở về. Ba năm trôi qua, cuối tháng Tư vừa qua, bộ Quốc phòng chính thức tuyên bố chàng tử trận, kết liễu mọi hy vọng mong manh của thân nhân. Laurie tức tưởi, “Không biết Gabriel mất vào ngày nào, gia đình anh ấy dùng lễ Chiến sĩ Trận vong làm ngày giỗ hàng năm. Ngày giỗ đầu năm nay, họ tổ chức lễ tưởng niệm tại nhà thờ anh rửa tội ngày mới ra đời.” “Tôi rất lấy làm tiếc về sự mất mát của cô. Lễ tưởng niệm cho Gabriel ở đâu và lúc mấy giờ?” tôi an ủy nàng.“Lễ cử hành lúc 10 giờ sáng thứ Hai ở Glen Ullin, đúng hơn tại một nhà thờ miền quê nhỏ cách Glen Ullin chừng mười dặm Anh về hướng bắc,” nàng vừa nói vừa lấy khăn chặm nước mắt, “Anh là người Việt tỵ nạn được nhiều người trong công ty mến phục. Tôi biết Gabriel sẽ rất thích gặp’ một người Việt như anh nên định mời anh chị tới dự. Lỗi tại tôi cứ chần chờ, hôm nay nói chuyện với anh thì quá trễ.” Glen Ullin là một thành phố nhỏ chừng 1,200 dân nằm cách Bismarck chừng 50 dặm Anh về phía tây. Tôi nhíu mày suy nghĩ, “Chúng tôi câu cá và cắm trại ở hồ Sweet Briar gần Glen Ullin và sẽ đến nhà bạn tôi là Phượng và Dean cũng ở phía bắc Glen Ullin, có lẽ không xa nhà thờ đó lắm đâu. Nếu cô còn có ý định mời thì tôi sẽ sung sướng nhận lời.” “Thật vậy sao? Cám ơn anh nhiều lắm. Từ nhà bạn anh, đi băng qua đường và cái sân rộng là tới nhà thờ,” nàng mừng khấp khởi. “Cô quen với vợ chồng bạn tôi sao?” tôi hơi ngạc nhiên. “Thảo nào lúc tôi mời anh chị ấy, Phượng nói sẽ có khách đến thăm nên không dự được. Dean là anh họ của tôi; dân Na Uy chúng tôi ở vùng này toàn là bà con họ hàng với nhau cả,” bây giờ tôi mới thấy nàng cười vui; Na Uy là một trong bốn nhóm chủng tộc chính ở North Dakota, ba nhóm kia là Đức, Nga, và Ái Nhĩ Lan. * * * Ngủ đêm ở nhà Phượng và Dean, sáng thứ Hai tôi và Quỳnh Châu sang nhà thờ dự lễ tưởng niệm. Nhà thờ nhỏ không có mục sư thường trực nên phải mời một mục sư trẻ ở Bismarck có họ với gia đình Gabriel lên làm chủ tế. Không khí trang nghiêm nhưng không buồn bã vì người Mỹ quan niệm tưởng niệm người quá cố là để kỷ niệm đời sống của người ấy. Tấm chân dung lớn của Gabriel mang lễ phục bộ binh màu cứt ngựa nằm giữa các bình hoa tươi trên chiếc bàn nhỏ trước mặt mọi người. Mục sư xen kẽ đọc thánh kinh, điều khiển cử tọa hát thánh ca, và lần lượt mời thân nhân và bạn bè lên chia xẻ kỷ niệm buồn vui với Gabriel – phần chính của buổi lễ. Tôi đặc biệt chú ý phần trình bày của Eric, em song sinh của Gabriel. Eric là em vì ra đời sau Gabriel mười phút và trông giống Gabriel trong hình như đúc. Eric nói trong nước mắt, Gabriel, từ lúc sinh ra và lớn lên, anh em mình không rời nhau nửa bước, cho đến khi em tiễn anh ra phi trường đi xuống Đồn Benning dự khóa huấn luyện bộ binh căn bản. Không ngờ đó là lần cuối cùng em thấy mặt anh. Em biết anh yêu Laurie vô vàn. Nàng sống trong tuyệt vọng và khổ đau suốt bốn năm qua. Em hứa với anh, em sẽ thay anh mang hạnh phúc đến cho nàng. Đó là điều em làm được và sẽ làm, nàng xứng đáng được như thế. Anh hãy yên nghỉ trong bình yên. Đồn Benning nằm hàng hai trên biên giới hai tiểu bang Alabama và Georgia là một căn cứ Lục quân rất lớn và là nhà của một số trường huấn luyện quân sự nổi tiếng, trong đó có Trường Bộ binh. Tiếp theo Eric, Laurie với đôi mắt đȁm lệ trình bày bức thư cuối cùng của Gabriel. Thư viết đêm mồng 10 tháng Sáu năm 1972, hai ngày sau khi chàng trông thấy cô bé Kim Phúc chín tuổi chạy trần truồng ra khỏi đám lửa của bom na-pan napalm đằng sau lưng trên Quốc lộ 1 tại Trảng Bàng thuộc Tây Ninh. Phóng viên nhiếp ảnh Nick Út của thông tấn xã AssociatedPress chụp được bức hình của Kim Phúc trong giây phút đó, truyền đi khắp thế giới, và đoạt giải Pulitzer về báo chí năm 1973. Trong đêm mưa nhiệt đới ấy, Gabriel xúc động viết thư kể lại và kèm theo bài thơ trong đó có một đoạn, But still the branches are wire And thunder is the pounding mortar, Still I close my eyes and see the girl Running from her village, napalm Stuck to her dress like jelly, Her hands reaching for the no one Who waits in waves of heat before her. Nhưng cành cây vȁn là cuộn kẽm gai Và sấm sét là súng cối pháo kích ầm ầm, Tôi nhắm mắt nhưng vȁn thấy cô bé ấy Chạy từ trong làng ra, na-pan Bám chặt vào quần áo cô như thể thạch đông, Hai bàn tay cô giương ra tìm đến người “không ai” Đợi trong cơn sóng thiêu đốt trước mặt cô. Bruce Weigl – “Song of Napalm” [Bài ca Na-pan] Thư đến tay Laurie vài ngày sau khi gia đình Gabriel được báo tin chàng bị mất tích. Tôi chưa hết bàng hoàng vì lời kể của nàng thì sau buổi lễ, trong bữa cơm trưa gia đình Gabriel khoản đãi ở hậu phòng nhà thờ, lại chứng kiến một cảnh cảm động khác. Đợi mọi người lấy đồ ăn và ngồi vào bàn xong xuôi, Eric dìu Laurie tới phía trước, quỳ gối trên chân trái, lấy hộp nhȁn trong túi ra, và nâng lên bằng cả hai tay, “Laurie Amy Ricker, đây là chiếc nhȁn đính hôn của mẹ tôi. Xin em ban cho tôi cái hân hạnh lớn nhất đời là làm chồng em. Tôi sẽ hiến dâng cho em mọi thứ tôi có được trên đời này.” Amy là tên giữa và Ricker là họ của Laurie. Tôi biết nàng sẽ không còn mang họ Ricker bao lâu nữa Nàng cười trong nước mắt nhận lời cầu hôn của Eric, và đàn bà tây phương lấy họ chồng sau khi thành hôn. Trong suốt buổi lễ hôm nay, các người Mỹ nhớ về quá khứ đau buồn, nhưng họ không hề than vãn, oán trách, hay căm hờn. Thật đáng phục, ước gì tôi làm được như họ! Nhưng làm sao tôiquên được hận thù khi bọn người man rợ tàn ác tiếp tục cướp bóc, đày đọa, và giết lần mòn dân tôi trên mảnh đất nhỏ bé bên kia bờ Thái bình dương? Vết thù trong lòng khó thể nhạt phai. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 31 tháng Ba, 2021Hồn Thiếu Nữ Tối Lễ Độc Lập Mấy người bạn người Việt của tôi thường gọi đùa Mạc là “thằng cu bụi đời” vì tôi và Quỳnh Châu đi đâu cũng “tha” bé theo, để ở nhà không có người giữ. Chúng tôi quấn bé vào trong chăn, đặt trong cái rổ mang em bé và nịt lại, và đặt rổ dưới sàn xe để rổ không di chuyển khi xe chạy nhanh hay thắng gấp. Bé dễ tính, thường không hay khóc hay quấy rầy, miễn là no sữa và sạch tả. Trong cái túi xắc có dải mang vai đựng tả, bình sữa, và các vật dụng lỉnh kỉnh khác, Quỳnh Châu luôn luôn thủ sẵn một cặp núm vú giả của trẻ con. Cái núm vú giả tiếng Anh “pacifier” nghe rất . . . oai là người hay vật dẹp yên, dẹp loạn, hay bình định, để cho Mạc ngậm và giữ bé nằm im lặng, không khóc oe oe rầy rà, khi nàng cần làm việc với người lớn. Hôm nay, sau một chuyến đi thông dịch cho người đồng hương xin welfare và food stamps, Quỳnh Châu nựng bé và cũng để trách yêu tôi, “Con của má mới từng này mà đã đi giang hồ giống ba. Mai mốt lớn lên thành Lệnh Hồ Xung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung cho thiên hạ biết tay!” “Ba nó nhờ làm Lệnh Hồ Xung vô chiêu thắng hữu chiêu’ mà vớ được mụ vợ dễ thương hết sảy là nàng Nhậm Doanh Doanh này đó,” tôi cười khà khà đáp lại. “Xí, người ta’ thương mình’ là thương cái học giỏi, cái thông minh, chớ cái dzụ giang hồ vặt của mình’ thì mấy năm sau mới xảy ra. Khi đó người ta’ đã lỡ thương rồi. Trót vì tay đã nhúng chàm, dại rồi còn biết khôn làm sao đây!” nàng cong môi đáp bằng hai câu Kiều. “Người ta nói thánh nhân đãi kẻ khù khờ, mèo mù vớ cá rán, là chồng em đó,” tôi chấp nhận một . . . sự thực phũ phàng. Chợt nhớ ra cuộc phiêu du sắp tới của Mạc, Quỳnh Châu nắm tay tôi nhắc nhở, “Cô Bình nhà mình khoái cu Mạc như điên, khen thằng nhỏ bụ bẫm má phinh phính ngó mà muốn cắn một cái, và muốn khoe cháu với bạn nên hẹn vợ chồng mình tối Chủ Nhật tới đưa con lên capitol nghe nhạc và xem pháo bông.” “Capitol” là khu nhà chính quyền trung ương tiểu bang làm việc, cách apartment chúng tôi ở không tới ba khu phố. Tòa nhà chính của capitol là ngôi tháp hình hộp 21 tầng mà cửa sổ đặc biệt dùng để trang hoàng thủ phủ Bismarck vào dịp lễ lạt. Mùa Giáng sinh, ban đêm mành mành màu đỏ và xanh lá cây được kéo lên cửa sổ và đèn thắp sáng bên trong các văn phòng được chỉ định để cho thấy hình cây Nô-en. Đêm “trừ tịch” trước Tết tây, đèn thắp sáng để báo hiệu năm mới; hai số đầu “19” nằm bên trên, và hai số sau “76” nằm bên dưới. Để mừng lễ Độc lập, đèn lại thắp sáng để viết thành “4TH ” tức là ngày mồng bốn. Lễ Độc lập cử hành vào ngày mồng bốn tháng Bảy, năm nay 1976 nhằm ngày Chủ Nhật. Ngày này 200 năm trước, 13 thuộc địa họp lại, tuyên bố độc lập với Anh quốc, và thành lập Hợp chúng quốc Hoa kỳ. Năm nay, trong các cuộc lễ ăn mừng sinh nhật lần thứ 200 của đất nước, mọi người tham dự đều mặc áo quần, đội mũ, và quàng khăn có ba màu đỏ trắng xanh – màu cờ Hoa kỳ. Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến cảnh mừng lễ Độc lập và lại được nghỉ “bắc cầu”sang ngày thứ Hai. Nếu một ngày lễ rơi vào thứ Bảy, sẽ được nghỉ “bắc cầu” qua ngày thứ Sáu trước đó. Sáng thứ Bảy, tôi được xem tận mắt cuộc diễn hành đầy màu sắc và sống động trên đường phố mà trước đây chỉ thấy trong phim xi-nê. Ban nhạc diễn hành của các trường trung học trong tiểu bang mang đồng phục tuyệt đẹp và sử dụng nhạc khí bóng loáng tụ về khoe tài, xen lẫn với xe hoa của các đoàn thể xã hội và chính trị và xe trình diễn của các công ty hay cơ sở thương mại khắp tiểu bang. North Dakota là tiểu bang chuyên về nông nghiệp và chăn nuôi nên rodeo không thể vắng bóng trong dịp lễ trọng đại này. Bắt nguồn từ Tây Ban Nha và Mễ Tây Cơ và lan rộng ra khắp châu Mỹ và các quốc gia khác, rodeo là môn thể thao cỡi ngựa để thi thố kỹ năng cần thiết trong việc chăn bò. Các môn tranh tài hào hứng thường gồm quăng dây thừng bắt bê và trói lại, rượt theo vật lộn và chế ngự bò đực, cỡi ngựa chứng không yên, cỡi bò tót đang vùng vẫy hất người cỡi xuống, và cỡi ngựa chạy quanh các thùng phuy xếp vòng vèo theo hình lá cây chĩa ba cloverleaf. Rodeo diễn ra suốt ngày Chủ Nhật ở Mandan, thành phố sinh đôi và cách Bismarck bảy dặm Anh, và thu hút cowboy cao bồi hay người chăn bò nam và cowgirl nữ khắp nơi, kể cả các tiểu bang lân cận, đổ về so tài. Dân thành phố mê ăn uống như tôi thì khoái street fair hội chợ ngoài đường phố hơn. Trong hai ngày thứ Sáu và thứ Bảy, người ta ngăn khu thị tứ dưới phố lại, không cho xe cộ đi qua để làm hội chợ. Các lò nướng ngoài trời nướng thịt ướp gia vị bay mùi thơm phức, Quỳnh Châu mê đùi gà tây nướng, và tôi khoái thịt bò kèm với thịt cừu nướng theo kiểu Hy Lạp gọi là gyro. Ngoài ra có xe bán món ăn đặc thù của các dân tộc khác nhau như Ái Nhĩ Lan, Đức, Na Uy, Nga, và nhiều kiosk bán áo quần may tại gia, tranh vẽ cảnh vật, và các sản phẩm thủ công nghệ khác. Trên sân khấu lộ thiên, nghệ sĩ địa phương thay nhau trình diễn giúp vui liên tục từ trưa đến tối. Buổi tối ngày lễ Độc lập, dân chúng tụ tập trên bãi cỏ xanh mướt rộng mênh mông trước capitol để nghe nhạc và xem pháo bông. Đó là nơi Bình hẹn gặp chúng tôi. Số người tham dự năm nayđược dự đoán lên đến trên 30 ngàn. Người ta mang theo lawn chair ghế để ngoài trời để dùng trên bãi cỏ hay ngoài vườn và các tấm trải để ngồi hay nằm thưởng thức hòa nhạc do ban nhạc đại hòa tấu của thành phố trình diễn trên sân khấu ở bậc thềm capitol. Khoảng 10 giờ đêm, trời tối, màn bắn pháo bông bắt đầu; ban nhạc tiếp tục đánh đến khi hết pháo bông. * * * Đầu tháng Bảy, tám giờ tối mà trời còn sáng. Cơm nước xong, tôi và Quỳnh Châu sửa soạn đem Mạc lên capitol dự hội. Trên bãi cỏ đã có rất đông người, Bình và vài người bạn Mỹ học cùng lớp trên Đại học Cộng đồng Bismarck BJC đến trước giành chỗ sẵn cho chúng tôi. Tôi ứa nước mắt ôm chặt cô em gái duy nhất và là đứa em từng sống gần gũi với tôi nhất; ở cùng một thành phố mà hơn năm tháng nay anh em tôi mới gặp lại nhau. Các bạn của Bình biết ý đi ra nơi khác để chúng tôi nói chuyện riêng tư. Chung quanh tôi, vài người hóa trang thành Uncle Sam chú Sam, đội mũ chóp cao màu trắng có sao trắng trên dải xanh, và mặc áo đuôi tôm màu xanh và quần sọc đỏ và trắng, và đôi ba phụ nữ ăn vận trang điểm như phu nhân đi dự dạ hội thời Cách mạng Hoa kỳ năm 1776. Tôi và Bình đang tỉ tê tâm sự trong khi Quỳnh Châu cho Mạc bú sữa thì một thiếu nữ bỗng ghé lại bắt chuyện với Quỳnh Châu, “Chào bà, tôi là Emma Lander. Tôi nhận ra bà vì bà xuất hiện trên tờ Bismarck Tribune trước đây không lâu, khi sinh người Mỹ gốc Việt đầu tiên của North Dakota. Chắc là chú bé này đây? Trông chú ngoan quá, vừa bú vừa yên lặng thưởng thức âm nhạc như người lớn.” “Dạ phải, cám ơn cô. Tối hôm nay trời đẹp tuyệt vời, chúng tôi mừng lễ Độc lập lần đầu tiên từ khi đến Bismarck,” Quỳnh Châu niềm nở trả lời. “Ngôi tháp capitol đẹp quá bà nhỉ. Tôi nhớ như in, một buổi sáng sớm cuối năm 1930, tôi khóc ròng khi đứng nhìn tòa capitol cũ chìm trong biển lửa. Tôi theo cha dự lễ động thổ xây cất tòa capitol mới này, nhưng không bao giờ có cơ hội dự lễ khánh thành,” cô kia buồn rầu nói. Trước mặt tôi là một thiếu nữ mười chín, hai mươi tuổi, người cao và thanh nhã, và mặt đẹp một cách thần bí. Cô để kiểu tóc và mang trang phục của thập niên 1930, tức là thời đại khủng hoảng kinh tế. Tôi chào cô và nói cho có chuyện, “Ban hòa tấu đánh nhạc thật hay. Không biết lúc nào bắn pháo bông?” “Ông bà đừng nóng ruột, mùa này mặt trời lặn trễ, và đợi tối trời bắn pháo bông lên mới thấy rõ và đẹp,” thiếu nữ mỉm cười. “Emma, cô thật tài, thiên hạ đông đảo thế này mà cô nhận ra chúng tôi. Trước đây chúng mình gặp nhau lần nào chưa?” tôi không khỏi thắc mắc. “Có lúc mình là hàng xóm láng giềng với nhau. Nhà tôi ở ngay góc đường,” cô trả lời lửng lơ. Buổi tối vui vẻ và thoải mái, nhưng Quỳnh Châu không khỏi băn khoăn về Emma. Vài ngày sau, Quỳnh Châu trở lại chuyện ấy, “Mấy người bạn dạy trên trường BJC nói hàng năm cứ tối mồng bốn tháng Bảy là có một cô Emma xuất hiện trong lễ ăn mừng trên capitol, gợi chuyện với vài ba người, kể chuyện capitol cũ bị cháy, và sau đó biến mất. Không ai gặp lại hay biết cổ ở đâu.” “Không ai chịu khó truy tầm tông tích cô ấy sao?” tôi ngạc nhiên.“Căn cứ theo lời kể và họ Lander của cổ, bạn em tin cổ là con gái đầu lòng trong số bốn cô con gái của Thống đốc Bill Lander, nhân vật mà một sử gia gọi là bậc thầy về hí trường chính trị,’” nàng hé mở bức màn bí mật và kể chuyện vị thống đốc này. Ông Lander là bộ trưởng bộ tư pháp và là ứng cử viên thống đốc khi lễ động thổ xây tòa capitol mới cử hành vào trung tuần tháng Tám năm 1932. Cuối năm ấy ông đắc cử, đầu năm 1933 nhậm chức, và không bao lâu sau bị công tố viên liên bang là kẻ thù chính trị truy tố về tội “âm mưu lường gạt chính phủ liên bang.” Năm 1934 tòa án liên bang xử, quan tòa lại là một kẻ thù chính trị khác. Ông Lander bị tuyên xử có tội và bị Tối cao Pháp viện North Dakota cách chức. Ông bèn tụ hợp chừng mười người bạn, tuyên bố North Dakota độc lập với liên bang, ban hành luật khẩn cấp, và cố thủ trong dinh thống đốc đến khi gặp mặt tối cao pháp viện. Rốt cuộc, ông nhượng bộ và trao quyền cho phó thống đốc lên thay thế. Cuối năm 1934, vợ ông Lander ra tranh cử thống đốc nhưng thất cử. Năm 1935, ông chống án thành công, và tòa phá án ra lệnh tòa dưới xử lại. Tòa xử lần thứ hai dưới sự điều khiển của ông quan tòa cũ, phụ thẩm đoàn luận tội lại bị hung “treo” hay lơ lửng, tức là không đạt được kết luận có tội hay không, và ông công tố viên cũ quyết định đưa ra xử lại. Trong lúc đợi xử lần thứ ba, ông Lander lại bị truy tố về tội man khai khi tuyên thệ nói sự thực, bị đưa ra xử ở một phiên tòa khác, và được tha bổng. Trong phiên tòa xử lại, ông thành công trong việc yêu cầu thay thế vị quan tòa cũ rồi được xử tha bổng. Năm 1936, ông ra ứng cử và tái đắc cử thống đốc. Quỳnh Châu nhắc tôi, “Chống có nhớ Emma nói cổ từng là hàng xóm của mình không? Em về nhà cha mẹ là nơi mình ở hơn sáu tháng lúc mới tới, và cùng Bình đi xem các nhà chung quanh. Ngôi nhà thật lớn sơn màu xanh lá cây ở góc đường đã dùng làm tư dinh của 20 vị thống đốc đầu tiên, kể cả ông Lander, từ năm 1893 đến năm 1960 thì đóng cửa. Năm đó, tiểu bang xây xong tư dinh mới gần capitol cho thống đốc ở.” “Anh nghe nói người ta đang phục hồi ngôi nhà đó giống như hồi xưa để làm di tích lịch sử cho công chúng xem. Nhưng vợ nói vậy nghĩa là sao?” “Nhà bỏ trống, không ai ở từ năm 1960 mà đến 15 năm sau mình mới tới đây. Cổ là hàng xóm của mình thì là . . . ma vất vưởng trong dinh thống đốc cũ chớ không phải là người!” “Làm sao em biết cô hay bà Emma đã chết thành ma?” tôi gặng hỏi. “Với ôông dôông này phải nói có sách, mách có chứng Em nhờ bà quản thủ thư viện trường BJC tra cứu thì được biết Emma Lander bị bệnh mất vào năm 1935, thời gian cha cô gặp khó khăn nhất. Lúc đó, cô mười chín tuổi và còn độc thân.” Lúc sinh tiền, Emma chưa được thấy tòa capitol mới hoàn thành và chính thức hoạt động. Ngày nay, hồn ma của cô trở về chốn cũ ăn mừng lễ Độc lập với đồng bào. Ước gì tôi được gặp cô lần nữa. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 14 tháng Tư, 2021Ai Làm Nên Nỗi? Đối với một người Mỹ đi làm việc trung bình, hai hay ba tuần nghỉ phép hàng năm đưa gia đình đi chơi xa về mùa hè là quyền lợi nhân viên quan trọng. Trong thời gian ấy, vợ chồng con cái cùng nhau đi du lịch, thăm viếng thắng cảnh hay địa điểm nổi tiếng, đi ngoại quốc cho biết đó biết đây, và nếu con vào lứa tuổi thiếu niên, đến các khu giải trí được ngưỡng mộ như Disneyland ở nam California hay Disney World ở Florida. Các khu giải trí này có nhiều trò chơi và ride các loại máy móc có ghế ngồi và chuyển động để tạo cảm giác hồi hộp mạnh mẽ cho người “đi” [hay “ride”], mua vé vào chơi cả tuần lễ cũng chưa hết. Tôi làm việc chưa đầy năm nên chưa có phép thường niên. Một số bạn người Việt của tôi có cơ hội đi nghỉ hè, nhưng họ không đi viếng cảnh hay du lịch mà đi thăm bạn bè thân nhân. Cả gia đình hay một nhóm bạn chất hết lên một chiếc xe hơi và thay nhau lái không nghỉ, chỉ ngừng lại đổ xăng và làm công tác vệ sinh. Đến nơi, gia chủ bày sẵn tiệc tiếp đón, khách ngồi vào chén mày chén tao đến khi say túy lúy và đi ngủ. Hôm sau, tiệc rượu lại tiếp diễn. Vài ngày sau, khách lên đường về nhà và lái một mạch như khi đi, mệt nhoài và buồn rầu ủ ê vì vừa chia tay với bạn bè. Anh Phức, Phiến, và thằng Sang em tôi vừa trở về sau một chuyến nghỉ hè như thế. Anh Phức đi sang đây một mình, vợ con còn ở Việt nam, và làm việc trong xưởng dây chuyền lắp ráp của hãng chế tạo máy cày. Phiến độc thân thực sự và làm trong hãng chế tạo trailer nhà di động. Thằng Sang vẫn đi làm trạm xăng và đã dọn ra ở chung với Phiến vì hết chịu đựng nổi bản tính nghiệt ngã của cha. Phiến trạc tuổi thằng Sang, người mập mạp và tốt bụng, nhưng phải tội ăn nói bừa bãi và khoái chê bai anh Phức. Anh quê ở làng Mỹ Lợi cách Huế chừng 30 cây số về phía đông nam, làng duy nhất nằm trong tỉnh Thừa Thiên mà dân chúng lại nói giọng Quảng Nam. Phiến giễu cợt cách phát âm của anh qua mẩu chuyện khôi hài, Hỏi Tại sao người làng anh Phức không biết ngồi xe lam hay đi xe đạp? Đáp Vì họ chỉ ngồi xe lôm và đi xe độp. Xe lam là loại xe thùng nhỏ có ba bánh dùng làm phương tiện chuyên chở công cộng của giới bình dân. Anh Phức làm ca đêm, ban ngày lái xe lòng vòng thăm các bà độc thân có con mà không chồng, nhưng mật ít ruồi nhiều, không dễ dầu gì lọt vào mắt xanh của họ. Phiến chọc ghẹo anh bằng câu ca dao, Em như cục cứt trôi sông, Anh như con chó chạy rông trên bờ. Anh Phức tức giận la lên, “Trâu buộc ghét trâu ăn! Cái thằng Phiến này, mi ganh tị vì thấy tao đẹp trai nói chuyện có duyên được các em’ mê tít thò lò.” “Anh có số đào hoa mà sao suốt ngày vác bộ đồ nghề’ chạy rông, chẳng nên cơm cháo gì?” Phiến cười cười. “Mi cũng xách củ cải’ chạy rông như tao chớ giỏi giang chi?”“Sức mấy! Tui là trai tơ, súng ống chưa sử dụng, chưa nếm mùi đời, chay tịnh không sao. Còn ai đó’ từng trải chuyện đời mới ăn quen nhịn không quen,” Phiến phản pháo. Chuyến nghỉ hè của ba người thực hiện được nhờ xưởng dây chuyền lắp ráp của anh Phức cho nhân công nghỉ một tuần để bảo trì máy móc. Anh rủ Phiến và thằng Sang đi thăm gia đình người anh vợ anh ở ngoại ô Chicago thuộc tiểu bang Illinois. Lần đầu tiên có dịp đi xa nên tuy phải xin nghỉ làm không ăn lương, Phiến và thằng Sang sốt sắng nhận lời, nhất là khi nghe nói gia đình đó có hai cô em gái trẻ tuổi độc thân – biết đâu đấy! Người đi xa về có thật nhiều chuyện để kể cho mấy tay nhà quê chưa có dịp ra khỏi North Dakota như tôi. Chicago có nhiều người Việt định cư, họ liên lạc được với thân nhân trên khắp thế giới và có đầy đủ tin tức Việt nam mà nhiều tháng nay báo chí Hoa kỳ hầu như quên bẵng. Nhờ vậy, tôi biết được những thủ đoạn cướp bóc trắng trợn và trả thù độc ác của chính quyền mới. Như “tiếp quản” các xí nghiệp tư và các trường đại học và trung học tư, bắt dân chúng đổi tiền nhưng chỉ cho đổi rất giới hạn – số tiền mồ hôi nước mắt còn lại bị mất toi, “đánh tư sản mại bản,” đày đọa “ngụy quân ngụy quyền” đi “học tập cải tạo,” và “tịch biên” nhà cửa và tài sản của gia đình họ, Đám dân thường sống khật khừ người không ra người bên ngoài nhà tù thì Lao động là vinh quang, Lang thang là chết đói, Hay nói thì ở tù, Lù khù thì đi kinh tế mới. Trong khi anh Phức và Phiến ba hoa về đời sống thành phố lớn trong bữa nhậu cuối tuần, thằng Sang đi làm bù cho những ngày nghỉ. Hơn một tuần sau ngày đi Chicago về, chiều thứ Sáu nó gọi điện thoại vào sở cho tôi, “Hôm nay anh cúp cua về sớm một bữa đi. Ra ba bar gần trạm xăng uống bia, tui bao. Làm cho lắm, tắm cũng ở truồng!” Hai anh em tôi uống bia chay không đồ nhắm như người Mỹ. Khi uống đủ đô dose, thằng Sang mở lời, “Anh còn nhớ thằng Khắc bạn học của tui ở Tuy Hòa không?” “Thằng Khắc hiền hiền ngu ngu, sau khi thi đậu Tú tài II, đi sĩ quan Hải quân, và về Tuy Hòa phục vụ trong đội Hải Thuyền đóng gần bãi biển Đông Tác; anh biết nó mà,” tôi gật đầu. “Lúc tụi tui vừa tới nơi, ông anh vợ anh Phức bày sẵn tiệc tẩy trần, và một lô bạn Hải quân ở quanh vùng ngồi chờ. Thằng Khắc là một trong mấy thằng Hai quần đó.” “Mừng mày gặp lại bạn cũ,” nhưng tôi chờ nó đi vào chuyện chính. “Nó dȁn theo con bồ sắp cưới, tui thấy là muốn nhảy dựng lên. Anh tin được không, bồ nó là con Hạnh Thúy Phan Thiết?” Mùa hè năm 1971, thằng Sang bị gọi nhập ngũ vào trường Bộ binh Thủ Đức, ra trường được chọn đi Pháo binh và gửi đi học ở trung tâm Huấn luyện Pháo binh ở Dục Mỹ, và được bổ về tiểu khu Bình Thuận ở Phan Thiết làm sĩ quan tiền sát gọi là đi đề-lô. Ở thành phố duyên hải duyên dáng hiền hòa này, nó làm quen với Hạnh Thúy, cô nữ sinh lớp 12 trường trung học PhanBội Châu, và dần dần tình yêu hai người lớn mạnh. Cha mẹ nàng là thương gia giàu có, không phản đối, và cho phép nàng dự liên hoan của sĩ quan tiểu khu với em tôi vào các dịp lễ lạt lớn. Ngày được thăng chức thiếu úy, thằng Sang hớn hở đến nhà Hạnh Thúy dự định ngỏ chuyện hôn nhân thì bị nói thẳng vào mặt là cha mẹ nàng đã quyết định gả con gái cho Trung úy Tạo, y sĩ trưởng Trung đoàn XX đóng ở Sông Mao. Mang mặc cảm thua kém tình địch, thằng Sang đau lòng ôm mối hận tình xin ra cầm trung đội Pháo binh đặt ngoài Phan Thiết và không lai vãng về thành phố. Ít lâu sau, dư luận tỉnh nhỏ đồn Bác sĩ Tạo bỏ rơi Hạnh Thúy để cưới cô con gái mười sáu tuổi của vị tướng tư lệnh sư đoàn và đổi về Sài gòn làm việc. Người ta cũng vô tuyến truyền miệng Hạnh Thúy và đứa em trai “lên Đà Lạt học,” nghĩa là nàng mang bụng bầu lên đó sinh con. Giọng nói của thằng Sang mang một chút tiếc nuối, “Phải công nhận gái một con trông mòn con mắt, con Thúy càng ngày càng đẹp. Nhưng cặp với thằng Khắc cù lần lửa thì đúng là bánh bột lọc cho ngâu vọc.” “Sao mày không nhào dzô lại? Thời buổi người khôn của khó dễ gì mà kiếm được người như Thúy?” tôi gợi ý. “Làm sao tui quên được nỗi nhục nhã đắng cay khi bị em’ đá ra rìa? Đứa con thằng Tạo tặng’ cho em’ trước khi quất ngựa truy phong còn đó; con Thị Mầu sao nỡ biểu Thị Kính này nuôi?” “Có bao giờ nói mày chuyện với Thúy về đứa bé, trai hay gái và tên gì không?” “Tui đâu có dư thì giờ mà hỏi thăm con hoang của thằng Sở Khanh đó,” nó nói chắc nịch. Thằng Sang không ngờ rằng cô bé tên là Thúy Sang, do “Hạnh Thúy” và “Sang” ghép lại, và thực ra là con của nó. Đầu tháng Tư năm ngoái 1975, khi Đà Lạt thất thủ, nàng ôm con cùng thằng em trai chạy về Sài gòn ở đỡ nhà người bà con trong Chợ Lớn. Nàng vào trường Phú Thọ gặp tôi trước rồi mới đến nhà tìm thằng Sang. Khi nói chuyện riêng với tôi, nàng tiết lộ nhưng bắt tôi phải cam đoan giữ kín, “Cuối năm 1973, anh Sang đưa em đi dự tiệc tất niên Quý Sửu của sĩ quan tiểu khu, bị bạn bè chuốc rượu say nhừ, và đưa em về nhà. Hai đứa không kềm chế được lòng mình và dâng hiến cho nhau. Hôm sau tỉnh rượu, ảnh không nhớ cuộc ái ân đêm qua. Khổ nỗi em ngu tận mạng, không hay mình dính bầu do cái lần đầu tiên và độc nhất đó, cho đến sau ngày ba má nhận lời cầu hôn của gia đình anh Tạo và ép em lấy ảnh. Ảnh khám phá ra bụng bầu của em và từ hôn.” Khi Hạnh Thúy đến nhà thăm và gặp mẹ, thằng Sang đưa nàng về và đi chơi qua đêm. Trái với sự mong ước thiết tha của tôi, hai kẻ yêu nhau một lần nữa quay lưng lại với nhau. * * * Khoảng một tháng sau khi nói chuyện với thằng Sang, tôi được công ty gửi đi Chicago dự hội nghị về phương pháp khảo sát hệ thống điện, chuyến đi công tác xa đầu tiên của tôi. Hội nghị từ thứ Tư đến thứ Sáu, tôi ở lại cuối tuần, lục niên giám điện thoại và hỏi tổng đài tìm số điện thoại của Hạnh Thúy, và gọi hẹn gặp nàng đi ăn tối ở phố Tàu. Thấy tôi, nàng vui mừng chạy lại ôm khóc rưng rức; tôi hỏi,“Nhỏ Thúy Sang khỏe không, bây giờ biết làm gì rồi?” “Dạ, cháu mới biết đi lȁm đȁm và nói bập bẹ vài tiếng. Cháu ở nhà với ông bà ngoại vì em đi làm và đi học suốt ngày,” nàng lấy khăn chặm nước mắt. “Thực không ngờ em và gia đình đi được sang đây. Hồi đó, anh tưởng em sẽ đưa cháu về Phan Thiết.” “Ban đầu em tính vậy. Nhưng khi về nhà người bà con thì được tin đường sá ở Phan Thiết tràn ngập xe cộ của đoàn di tản từ các tỉnh phía bắc chạy vào, chợ Phan Thiết bị cháy rụi, và tỉnh nhà trở thành tuyến địa đầu chống lại quân Cộng sản. May quá, ba má kịp thời bỏ nhà bỏ cửa kéo mấy đứa em chạy thoát thân vào Sài gòn. Cả nhà tụ lại một chỗ và sau đó theo tàu Hải quân di tản sang đây.” Hạnh Thúy kể chuyện vừa qua, “Trong trại tỵ nạn Đồn Chaffee em gặp lại anh Tạo. Ảnh đi một mình vì cô vợ trẻ ở nhà cha mẹ cổ và ông tướng anh hùng nhất định không rời khỏi nước và cũng không cho phép gia đình ra đi.” “Và anh ta ngỏ ý muốn chắp nối với em, phải không?” tôi hỏi đùa. “Sao anh biết hay quá vậy?” nàng tưởng tôi nói thực, “Ảnh đề nghị hai đứa xáp lại sống chung, khai là vợ chồng và bé Sang là con ảnh, và làm lại từ đầu.” “Sao em không nhận lời?” “Ảnh tưởng nhỏ Thúy ít học ngu si này ham lấy bác sĩ lắm nên đui mắt, không thấy cái dây thòng lọng thắt cổ. Em hỏi ảnh, Chừng mai mốt vợ anh lù lù qua đây thì tính làm sao?’ Ảnh tịt ngòi luôn.” Hạnh Thúy nói về cuộc sống hiện tại, “Ba má đã có tuổi, ở nhà ăn trợ cấp chính phủ và giữ cháu. Ban ngày em làm bồi bàn tiệm Tàu, buổi tối đi học Anh văn và học thi lấy bằng GED.” GED general equivalency diploma là bằng tương đương với chứng chỉ tốt nghiệp trung học. “Nhất em rồi! Không phải ai cũng chịu khó và có tinh thần cầu tiến như em; thằng Sang tối ngày chỉ lo ăn nhậu,” tôi thành thật khen nàng, “Nhưng sao anh nghe nói em sắp lập gia đình với Khắc bạn nó?” “Không có đâu anh. Bữa đó em tới giúp làm tiệc vì em là bạn thân của em gái chủ nhà. Em biểu hai cô ấy nói vậy để chọc cho ảnh tức chơi. Em sợ đàn ông lắm rồi anh ơi!” Trên chuyến bay từ phi trường O’Hare Chicago về Bismarck chiều Chủ Nhật, tôi lẩn thẩn tự hỏi tại sao bé Thúy Sang lớn lên không có cha. Lỗi tại ai? Do cha mẹ Hạnh Thúy gây ra thảm kịch này? Hay vì thằng Sang đã tạo ra bé mà không hay biết bé hiện hữu? Hay tại Hạnh Thúy câu nệ, tự ái không thèm nói bé là con của nó? Và Bác sĩ Tạo có góp phần khiến nàng “sợ đàn ông lắm rồi” không? Chung quy, chỉ có ông Trời là dễ đổ lỗi, Cho hay duyên số bởi trời, Dầu ai thêu dệt vẽ vời mặc ai. Ca dao Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 28 tháng Tư, 2021Nhiều Nỗi Truân Chuyên Tháng Bảy và tháng Tám là hai tháng nóng nhất trong năm ở Bắc bán cầu. Mặc dù North Dakota nằm phía cực bắc Hoa kỳ, giáp giới với Gia Nã Đại, mùa hè cũng nóng nực như nơi khác. Buổi chiều nhiệt độ có khi lên đến trên 100° Fahrenheit khoảng 38° Celsius, nhưng không khí khô, và ban đêm trời mát xuống nhanh và trở nên dễ chịu. Với thời tiết khá lý tưởng này, vào cuối tuần, đám dân tỵ nạn quen sống vùng nhiệt đới quanh năm nóng và ẩm tha hồ vui hưởng các sinh hoạt tập thể như đi cắm trại, ăn uống và ngủ đêm ngoài trời, đi câu cá, và viếng thăm nông trại để làm gà làm heo và làm bò nướng bê thui. Nhóm bạn tôi gồm một số cựu quân nhân Hải quân như anh Dần và anh Phức và thanh niên độc thân như Phiến, ai nấy đều tháo vát và có nhiều sáng kiến. Hôm ấy, chúng tôi ra thăm nông trại của vợ chồng Phượng và Dean. Thay vì bắt gà “đi bộ” làm thịt như thường lệ, anh Dần bỗng thèm ăn thịt heo tươi, “Ăn thịt heo đông lạnh bán ngoài siêu thị hoài ngán quá,” và nhờ Dean đưa sang trại nuôi heo gần đó mua heo con giết thịt. Anh Dần là kẻ đầu nêu, việc gì anh cũng làm được dễ dàng. Thấy tôi đứng xớ rớ gần con heo vừa bị bắn chết và tỏ bộ muốn phụ giúp, Phiến gạt tôi sang một bên, “Anh Ba Hoa làm thợ vịn chỉ vướng tay vướng chân người khác. Xê ra cho tui nhờ!” Được lời như cởi tấc lòng, tôi lấy thuốc lá ra hút phì phèo, “Xê ra thì xê, sợ gì?” “Coi kìa, ông kỹ sư chừ đứng làm giám thị chỉ huy tụi mình,” anh Dần cười khà khà. “Giám thị gì anh Ba Hoa, giám thị . . . ăn thì có!” đến lượt Phiến mỉa mai. Phiến hay nói xóc óc, nhưng trúng phóc ở điểm tôi vụng về không làm gì ra hồn ngoài việc . . . ăn. Chẳng hạn như khi biết tôi không biết câu cá, anh Dần đưa tôi đi mua cần câu và các dụng cụ cần thiết và chỉ dẫn cách móc mồi, ném dây câu, Tôi ra hồ câu với anh hai lần, lần nào cũng ngồi cả buổi mà không có con cá nào chịu cắn câu. Anh nói tôi không có số “sát cá,” “Thôi anh cứ ngồi chỗ cắm trại đọc sách hay theo đuôi mụ vợ nghe lóm chuyện tò le ngồi lê đôi mách, chờ tui đem cá về.” Từ đó, tôi giữ nhiệm vụ nhóm lửa trong lò đốt bằng than để các bà nướng cá câu được và thịt ướp sẵn ở nhà mang theo. Hôm nay có anh Phức là người khắc khẩu với Phiến, tôi không thể bỏ qua dịp tốt để xúi hai người cãi nhau cho có chuyện cười. Tôi quay sang anh Phức phân trần, “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo. Mấy người này . . . mệt quá; tôi muốn phụ một tay thì không cho, mà đứng ngoài ngó cũng không để cho yên thân.” “Thằng Phiến biết khỉ khô gì mà anh thốc mốc thắc mắc lồm làm chi cho mệt người?” với giọng Quảng Nam, anh nói với tôi nhưng cốt để Phiến nghe. “Tui nghe rồi đó. Anh Phức bữa nay bị mấy mệnh phụ phu nhân’ cho ra rìa, hết chỗ chầu chực, và phải đi chơi với tụi tui sao?” Phiến hỏi móc, ám chỉ anh Phức đi làm ca đêm vàban ngày rảnh rỗi lái xe loanh quanh “thăm” các bà độc thân có con mà không chồng, và không ai đáp lại . . . thịnh tình của anh. “Cái thằng Phiến ni, mi ăn nói ba láp ba xàm nữa thì tao kêu con Thúy Hạc tới chưởi mi một trận cho tởn thói cà chớn,” anh Phức dọa nhưng hiển nhiên đã xuống nước. Thúy Hạc và chồng là Ralph ở thành phố Dickinson có chừng 15,000 dân nằm cách Bismarck 100 dặm Anh về phía tây. Chúng tôi gặp cặp vợ chồng này khi họ đến dự tiệc ăn mừng năm mới 1976 được tổ chức để cám ơn ân nhân bảo trợ và bạn mới trong thành phố. Họ đến trễ, tôi ra đón, và tôi ngẩn ngơ vì trông Thúy Hạc rất quen nhưng không nhớ đã gặp ở đâu. Nàng cũng thȁn thờ, có lẽ cũng vì vậy. Tôi bận rộn lăng xăng nên đưa hai người đến bàn Phiến ngồi và nhờ Phiến tiếp giùm. Ngày phục vụ ở Việt nam, Ralph là đại úy tâm lý chiến, hai người cùng nhau về Mỹ năm 1973, và Ralph làm cán sự xã hội trong dưỡng trí viện Dickinson. Hai người có hai cậu con trai đứa lớn bảy tuổi có khuôn mặt rặt Việt nam và được hai người gọi bằng cái tên nghe từa tựa như “Tuan” mà chúng tôi thầm đoán là “Tuấn,” và đứa nhỏ ba tuổi rõ ràng là con lai. Sau này, dù chơi thân với Thúy Hạc, tôi vȁn không biết gì về thân thế nàng. Nàng thủ khẩu như bình, nói lảng sang chuyện khác khi bị hỏi về đời tư ở bên nhà. Khi cả bọn đi chơi chung, Thúy Hạc bày tỏ cảm tình đặc biệt đối với tôi và đôi khi âu yếm có chiều lả lơi, nhưng nói bằng tiếng Anh nên không ai để ý. Tôi nhận thấy Phiến si mê nàng nhưng không dám bộc lộ mà thỉnh thoảng đùa cợt chớt nhả khiến nàng nổi giận mắng nhiếc thậm tệ. Tuy thích cãi vã, Phiến bị mắng mà vȁn nín khe, không một lời biện bạch. Đó là lý do anh Cấp đem Thúy Hạc ra dọa Phiến. Tôi nghe nói cuối tuần Phiến hay lái xe lên Dickinson, chạy quanh quẩn vài vòng trong thành phố nhỏ, và ngồi hàng giờ ở ghế đá trong công viên trước nhà Thúy Hạc. Một thiếu phụ thông minh, xinh đẹp, và cởi mở như nàng, nếu nhằm lúc, đàn ông ai mà không yêu? Ngay cả tôi, dù có nàng tiên Quỳnh Châu bên cạnh, thỉnh thoảng ngủ mơ thấy mình sánh vai gần gũi Thúy Hạc. Khi tỉnh giấc, tôi cho giấc mơ ấy, theo thuyết phân tâm học của Sigmund Freud 1856 – 1939, phát sinh do ham muốn tình dục bị dồn nén vào tiềm thức. * * * Mùa thu năm 1978, Quỳnh Châu cùng bé Mạc đi Âu châu thăm gia đình nàng, tôi ở nhà đi làm, và một biến cố dị thường xảy đến. Hôm đó là sáng thứ Bảy, tôi lái xe lên Dickinson rồi tiện dịp ghé thăm Thúy Hạc trong khi Ralph chồng nàng đưa hai đứa con về tiểu bang Indiana thăm bà nội. Vào trong nhà, tôi choáng váng trước cảnh mộng huyễn hay thấy trong giấc mơ Thúy Hạc nằm nghiêng trên giường trong bộ áo quần ngủ lụa hồng, tựa đầu lên chiếc gối thêu hoa, và mắt khép mơ màng. Mê mẩn bước lại gần và trước khi cúi xuống hôn lên đôi môi mời mọc như trải qua trong mộng, tôi giật mình thức tỉnh, nhắm nghiền mắt lại để xóa tan mộng cảnh, và bước ra ngoài. Ba ngày sau, tôi nhận được thư của nàng xác nhận điều tôi âm ỷ nghi ngờ nhưng gạt đi, cho là thậm vô lý,Từ ngày gặp anh lần đầu, em luôn ngủ mơ thấy trong một kiếp xa xưa nào đó của em – và của anh, mình là đôi vợ chồng hạnh phúc bên nhau. Rồi tôi được tin vợ chồng Thúy Hạc dựng bảng bán nhà dọn đi nơi khác và không để lại địa chỉ. Khoảng một tuần sau, Phiến đến thăm tôi với vẻ mặt buồn thiu. Tôi lấy bia, loại bia Budweiser thường uống, ra mời, nhưng Phiến lắc đầu và chạy ra xe lấy vào hai xâu 12 lon bia Old Milwaukee. Miệng méo xẹo nhưng Phiến rán ghẹo tôi, “Anh là ông kỹ sư mới uống Budweiser lon trắng, làm bằng gạo, nặng độ rượu hơn, và mắt tiền hơn; tui là dân lao động vinh quang chỉ dám chơi Old Milwaukee vừa nhẹ vừa rẻ.” “Không phải vậy. Tôi uống Budweiser vì ngày sinh viên túi không tiền được mấy ông chú cho uống bia Budweiser chùa. Rồi thành quen thói,” tôi phân trần rồi hỏi, “Hôm nay có chuyện chi mà tôm quá bộ đến nhà rồng?” “Anh biết chị Hạc dọn nhà đi chỗ khác rồi không?” Phiến không dấu vẻ bực bội. “Bây giờ tôi biết rồi. Nhưng mà sao?” Tôi trả lời lửng lơ vì chưa biết chủ ý của Phiến. Dù sao đi nữa, tôi không thể tiết lộ mối liên hệ huyền ảo giữa mình và Thúy Hạc. May thay, dường như muốn chia xẻ niềm tâm sự, Phiến lúng túng mở đầu, “Anh biết tui là người Việt gốc Hoa và hồi trước học trường trung học Mạc Đĩnh Chi không?” “Tôi không biết Phiến là dân ngộ ái nị’ tôi yêu cô/anh, nhưng ngôi trường mang tên vị Lưỡng quốc Trạng nguyên đó thì tôi biết.” Mạc Đĩnh Chi là trường trung học công lập hỗn hợp nam nữ học chung duy nhất ở Sài gòn và được thành lập năm 1957 dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, sau khi chính phủ ban hành Dụ hay Sắc lệnh số 53 cấm Hoa kiều làm 13 nghề họ đang nắm độc quyền thao túng thị trường. Nếu muốn giữ nghề cũ, họ phải nhập Việt tịch và hưởng quyền lợi và thi hành bổn phận như những người Việt khác. Trường được lập ra nhằm đáp ứng nhu cầu của học sinh người Việt gốc Hoa chuyển sang học chương trình Việt. Họ được vào học vô điều kiện trong vài niên khóa đầu, dần dần phải thi tuyển với ưu tiên có thêm điểm, và sau đó Việt hóa hoàn toàn. Tiếng Trung Hoa có rất ít đại danh từ để xưng hô, không như tiếng Việt có vô số đại danh từ khác biệt nhau một cách tinh tế. Ngôi thứ nhất tiếng Trung Hoa chỉ có chữ ngã người Quảng Đông phát âm là ngộ, là “tôi” và ngôi thứ hai chỉ có vài ba chữ như nhĩ và nãi cả hai, người Quảng Đông phát âm là nị, là “anh” và “cô”. Do đó, ở Mạc Đĩnh Chi, thầy cô đôi khi nghe học sinh phát biểu những câu tréo cẳng ngỗng như, Thưa thầy, nó đánh tao. hay Thưa cô, mầy hỏi cái gì tao không hiểu? Qua bước đầu, không còn ngượng miệng, Phiến nói về Thúy Hạc, “Chỉ là một hoa khôi của Mạc Đĩnh Chi và trên tui hai lớp. Đứa vô danh tiểu tốt như tui lại cả gan chơi trèo, âm thầm hâm mộ chỉ từ hồi đó.” “Vậy Hạc là người Việt gốc Hoa mà tôi không hay, sao Phiến không nhìn bà con?”“Từ phút đầu tiên, khi anh đưa chỉ lại giới thiệu và nhờ tiếp giùm, tui nhận ra chỉ liền. Nhưng mấy năm nay không dám hé môi nói cho ai biết.” “Tại sao lạ vậy?” “Vì cảnh ngộ, chỉ thay tên đổi họ để trốn lánh mọi người quen cũ,” Phiến trầm ngâm nhớ lại chuyện người đàn bà bí ẩn. Nàng tên thật là Nhan Thủy Thúy, con một của một gia đình thương gia giàu có ở trên đường Lục Tỉnh Chợ Lớn. Mùa thu 1967, sau khi đậu Tú tài II hạng Bình, nàng ghi danh học “chứng chỉ” Lý Hóa Nhiên tức là SPCN Science, Physique, Chimie, et Naturelle ở Đại học Khoa học Sài gòn trong khi làm thủ tục giấy tờ đi Hoa kỳ du học học ngành quản trị xí nghiệp để sau này coi sóc cơ nghiệp gia đình. Người yêu của nàng cũng là cựu học sinh Mạc Đĩnh Chi và đang theo học ngành kiến trúc ở trường Cao đẳng Kiến trúc nằm trên đường Pasteur. Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng tấn công vào các thành phố, đột nhập vào Chợ Lớn, và trốn trong nhà dân chúng để bắn ra. Chiếm giữ nhà Thủy Thúy là thằng Việt Cộng cầm đầu “Thành đoàn,” tên gọi tắt của “đoàn Thanh niên Lao động Việt nam,” chuyên giật dây, phá rối, và khủng bố trong hàng ngũ thanh niên, sinh viên, và học sinh ở “nội thành” Sài gòn - Gia Định. Thằng này trước kia giả dạng người Việt gốc Hoa trà trộn vào Mạc Đĩnh Chi, trên nàng ba lớp, và mê nàng như điếu đổ nhưng bị thẳng tay cự tuyệt. Thừa cơ hội đột nhập này, nó dùng võ lực cưỡng bức nàng. Trước khi cùng đồng bọn trốn chạy, nó hứa giữ kín chuyện này nếu hàng tháng cha mẹ nàng nộp một số tiền lớn để “ủng hộ nhân dân miền Nam anh hùng đánh lại đế quốc Mỹ.” Nếu không, nó sẽ công bố chuyện nàng không còn trinh trắng và cho đặc công phá vỡ cơ sở kinh doanh và hạ sát cả gia đình. Kể đến đây, Phiến nén tiếng thở dài thương cảm, “Họa vô đơn chí, chỉ khám phá ra mình mang thai, mộng ước du học trở thành mây khói, và người yêu không còn lai vãng thăm viếng và nghe đâu đã cặp bồ với cô khác.” “Tại thằng Việt Cộng khốn nạn mà ra cả,” tôi tức giận la lớn. “Dù ở trong hoàn cảnh nghiệt ngã, chỉ đáng mặt là bậc anh thư cho tui tôn thờ. Người ta đồn chỉ bí mật tiếp xúc với cơ quan an ninh và hợp tác để giúp họ tìm cách hốt trọn ổ bọn Việt Cộng nằm vùng. Kế hoạch thành công, mạng lưới đặc công vùng Chợ Lớn bị phá vỡ, và thằng hèn hạ đào tẩu không kịp bị bắn chết. Sau đó, chỉ biến mất; không ai biết chỉ đi đâu và làm gì. Cha mẹ chỉ cũng vậy; nhà cửa và doanh nghiệp đã chuyển nhượng cho người khác.” Điều này giải thích tại sao Thúy Hạc không bao giờ đề cập tới quãng đời ngày trước; cậu bé “Tuan” có lẽ là đứa con oan trái đó. Cuộc đời nàng như được diễn tả bằng lời mở đầu Chinh phụ Ngâm khúc, Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Đặng Trần Côn – Đoàn thị Điểm Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 9 tháng Sáu, 2021Máy Điện Toán và Tôi Tôi làm việc ở nha Điều hành Hệ thống Điện của Công ty Tiện ích Montana-Dakota đã được năm tháng. Ông sếp già Howard để cho tôi tự do chọn làm các dự án thấy hợp với kiến thức lý thuyết của mình. Tôi miệt mài học hỏi phương cách điều hành hệ thống điện và cố gắng thích nghi với vai trò kỹ sư kế hoạch điện lực. Trong môi trường mới, việc tính toán liên quan đến hệ thống điện đòi hỏi hàng ngàn, có khi hàng vạn, con tính nhỏ và không thể làm bằng tay mà phải dùng máy điện toán. Tôi thấy mình thua kém các kỹ sư trẻ của công ty ở chỗ họ đều học FORTRAN và dùng máy điện toán khi còn học trong trường đại học. FORTRAN do “Formula Translation” là phiên dịch công thức là ngôn ngữ thảo chương dùng để tính toán trong các áp dụng khoa học và kỹ thuật. Ở Việt nam, tôi đã tự học lý thuyết máy điện toán, và Ngành Điện của Đại học Kỹ thuật thuộc Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có một chiếc máy Nova 800 do hãng Data General chế tạo. Tôi cũng đã dự một khóa hội thảo dành cho giảng viên trường Đại học Kỹ thuật dạy thảo chương ngôn ngữ BASIC. BASIC do “Beginner's All-purpose Symbolic Instruction Code” nghĩa là mệnh lệnh dùng ký hiệu đa dụng dành cho người mới học được Đại học Dartmouth thiết kế và phổ biến năm 1964. Nhưng tôi chỉ đứng xa nhìn chứ chưa hề rớ tới chiếc máy Nova, và tầm hiểu biết về máy điện toán và BASIC chỉ là lý thuyết suông. Máy điện toán chính duy nhất của công ty là hệ thống Honeywell 2000 với ký ức có khả năng chứa 32 KB kilobyte, tức một ngàn “byte”. Điện thoại di động ngày nay với ký ức 16, 32, hay 64 GB Gigabyte, tức một tỉ “byte” có khả năng bằng 500 ngàn, một triệu, hay hai triệu lần chiếc máy Honeywell tối tân năm 1976. Máy điện toán này và dụng cụ ngoại biên được đặt trong phòng máy điện toán là một căn phòng lớn ở lầu ba có gắn máy lạnh để làm mát; mạch điện tử khi hoạt động sẽ tỏa nhiệt và nếu nóng lên sẽ bị hư hỏng. Hệ thống được các điều hành viên điện toán trực tiếp điều khiển bằng cách đánh mệnh lệnh vào bàn chữ đặt trên mặt console là bộ phận điều khiển trông giống như cái tủ nhỏ kiểu có chân đứng. Tôi biết mình không thể không biết thảo chương programming FORTRAN và bắt đầu chương trình học ngôn ngữ này bằng cách hỏi anh bạn đồng sự Dennis ngồi kế bên, “Anh còn giữ cuốn sách FORTRAN nào không?” Hình như đã chờ đợi câu hỏi này từ lâu, Dennis lấy từ kệ sách trước mặt đưa cho tôi cuốn sách giáo khoa anh dùng ở đại học và tập tài liệu bìa rời do hãng, -, *, /. Sau khi viết xong mȁu thảo chương, tôi gửi xuống ban Xuyên Phiếu ở lầu ba yêu cầu “đục lỗ và soát lại.” Ban này có hơn một chục nhân viên, toàn là phụ nữ. Họ dùng máy xuyên phiếu trông tựa như một chiếc máy chữ lớn để đục lỗ tín hiệu key punch vào các tấm thẻ, và để soát lại, dùng máy kiểm phiếu có hình thể tương tự. Mỗi tấm thẻ là một dòng mệnh lệnh và có 80 cột tương ứng với 80 ô trên mȁu thảo chương. Mỗi cột trên thẻ gồm 12 “ô” hay khoảng trống nhỏ, mỗi “ô” có thể được đục lỗ hay không để tương ứng với 1 hay zero trong hệ thống nhị phân, và mỗi chuỗi số gồm 1 hay zero kế tiếp nhau đó biểu diễn một ký tự riêng biệt. Thí dụ A là 000001000001. Bị giới hạn sáu ký tự là dài nhất, tôi đặt tên chương trình là LINCAL viết tắt của Line Calculations. LINCAL gồm khoảng 2,000 dòng, số thẻ đã đục lỗ đựng vừa vặn chiếc hộp chữ nhật hãng sản xuất dùng chứa thẻ mới gửi tới cho khách hàng. Tôi gửi submit hộp thẻ vào phòng máy điện toán để in ra thành chữ để soát lại và sửa lại công trình của mình một lần cuối. Nhưng đấy chỉ là bước đầu tiên – rất nhỏ – của chặng đường gian nan trước mặt giai đoạn biên dịch compile chuyển mệnh lệnh nguồn thành chương trình thừa hành executable chứa trong máy điện toán mà sau này người sử dụng có thể gọi ra, cung cấp dữ kiện cần thiết, và sai khiến tính toán và in ra kết quả. Mỗi lần làm biên dịch, nếu chương trình nguồn không bị máy điện toán “chê” vì lỗi cú pháp không đúng quy luật FORTRAN thì chương trình thừa hành mới được tạo ra và thay thế chương trình cũ, và tôi dùng dữ kiện mȁu chạy thử. Trong năm, sáu lần chạy thử đầu tiên, LINCAL không những không cho kết quả mong muốn mà còn gây ra chuyện khác thường. Thí dụ, chương trình đi vào một “vòng vô tận” khiến máy điện toán chạy hoài không ngừng, và điều hành viên gọi điện thoại cho tôi than phiền trước khi “giết” chấm dứt ngang chương trình. Cólần chương trình in ra một đống giấy cao cả thước mà trang nào trang nấy y hệt nhau, tôi lại bị một phen mắng vốn. Mỗi lần chương trình chạy sai là một dịp học hỏi Tôi tham khảo ý kiến Dennis, tra cứu sách vở, và tìm cách viết mệnh lệnh hiệu quả hơn. Rồi mang hộp thẻ vào phòng xuyên phiếu, kiếm một chiếc máy đục lỗ không ai dùng, và mò mȁm đánh lại thẻ. Từ nhỏ đến lớn, tôi chưa bao giờ dùng máy chữ nên khi muốn đánh một ký tự, phải lần mò tìm ký tự ấy trên bàn chữ rồi dùng ngón tay trỏ bàn tay phải mổ cò một phát. Nếu đánh sai một ký tự thì phải bỏ nguyên tấm thẻ đang đục lỗ và làm lại từ đầu. Trong ba tuần lễ đầu tiên tập tễnh làm thảo chương viên, tôi ăn dầm nằm dề ở phòng xuyên phiếu trước cặp mắt lạnh lùng khó chịu của chị trưởng ban trạc tứ tuần mà chưa có chồng. Một hôm, đến cuối ngày mà vȁn chưa hoàn tất các sửa đổi cần thiết, tôi để hộp thẻ ở phòng xuyên phiếu và ngȁu nhiên ra về một lượt với chị ta. Trong thang máy, chị trêu tôi, nhưng nghiêm mặt không cười, “Hình như anh thích làm công việc xuyên phiếu? Anh cứ nộp đơn, chúng tôi đang cần người.” Tôi bối rối đỏ mặt tía tai, đau như hoạn, nhưng đành cắn răng cười trừ. Hôm sau, tôi mượn cuốn sách chỉ dȁn cách dùng máy xuyên phiếu, để ra một buổi đọc từ đầu đến cuối, và ghi ra những điều cần nhớ trước khi tiếp tục sửa thẻ. Nhờ vậy, tôi biết rõ cách dùng máy, và ngón tay mổ cò tuy vȁn chậm rì nhưng không còn đánh sai tùm lum như trước. Một tháng trôi qua và sau khoảng hai chục lần biên dịch và chạy thử, chương trình LINCAL của tôi hoạt động đúng như tôi và Dennis đã hoạch định. Chúng tôi mang bản in vào văn phòng ông Howard trình bày kết quả dự án. Ông sếp là kỹ sư thuộc thế hệ cũ và không biết nhiều về thảo chương hay máy điện toán. Ông chăm chú nghe tôi trình bày phương pháp tính toán, gật gù đồng ý với tôi về dự định in kết quả thành một tập tài liệu để phổ biến đến các kỹ sư trong công ty, và cuối cùng hỏi một câu tưởng chừng như không ăn nhập gì tới vấn đề đang thảo luận, “Vậy chớ ngày tháng chạy máy ở đâu mà không thấy?” “Tại sao cần đến ngày tháng?” cả tôi và Dennis cùng kêu lên. “Các bạn trẻ ơi,” ông Howard mỉm cười sờ râu mép và chậm rãi giải thích, “Giả sử trong tương lai, hàng năm các anh cập nhật hóa dữ kiện về các đường dây truyền điện và chạy lại chương trình, nếu không in ngày tháng trên bản in, làm sao biết được bản nào lỗi thời cần liệng bỏ và bản nào hiện hành cần giữ lại?” “Hôm nay ông làm chúng tôi thành hai thằng trán trẹt!” Dennis thẹn thùng chấp nhận lời khuyên giản dị mà thực tiễn của ông sếp. Dennis có óc hoạt kê khá đặc biệt, danh từ “thằng trán trẹt” bắt nguồn từ câu chuyện khôi hài anh hay kể, Một anh kỹ sư tự cho mình thông thái và biết nhiều và mỗi lần nghe ai nói điều gì mà anh không biết, xòe tay vỗ mạnh vào trán, “Ừ, dễ quá; có thế mà không nghĩ ra!” Tháng lại ngày qua, trán anh bị vỗ dài dài và trẹt hẳn ra, và anh ta có tên “thằng trán trẹt.”* * * Trong khi tôi và Dennis thảo chương và sử dụng máy điện toán vì nhu cầu tính toán kỹ thuật, sở Khai thác Dữ kiện Data Processing có nhiệm vụ trông nom và điều hành máy điện toán và phụ trách các công việc tính toán và kiểm kê “quan trọng hơn,” liên quan trực tiếp đến tiền bạc như hồ sơ tài chánh và kế toán, hóa đơn tính tiền khách hàng, lương bổng nhân viên, hàng hóa tồn kho, Nhân viên khai thác dữ kiện chuyên môn có ba bậc Thấp nhất là điều hành viên, kế đến là thảo chương viên, và sau cùng là phân tích viên. Hai nhóm sau dùng COBOL từ "COmmon Business-Oriented Language" nghĩa là ngôn ngữ thông dụng chuyên dùng cho ngành kinh doanh để thảo chương. Các nhà điện toán chuyên nghiệp đó xem tôi là “người ngoài” được đặc ân dùng máy ké. Khi tiếp nhận yêu cầu chạy máy của tôi, các điều hành viên tỏ tuồng mặt khinh khỉnh như chĩnh mắm thối. Để chạy một chương trình FORTRAN bình thường, điều hành viên chỉ cần nạp thẻ vào máy đọc thẻ và đánh mệnh lệnh vào bàn chữ trên console, READ Đọc. Sau khi máy đọc thẻ đọc xong, chương trình sẽ điều khiển máy điện toán làm việc và in ra những điều họ cần làm trên console – không cần suy nghĩ gì cả. Dennis hay nói đùa với tôi, “Bọn điều hành viên ngồi không trong phòng máy lạnh và không vận dụng trí não nên bộ óc dần dần teo lại bằng hạt cát. Thật tội nghiệp!” Một hôm tôi mang thẻ vào phòng máy điện toán và chờ mãi không thấy bóng dáng điều hành viên nào. Nóng lòng chạy chương trình để có kết quả sớm, tôi nhìn quanh nhìn quất không thấy ai bèn hối hả nạp thẻ vào máy đọc và bước tới console đánh vào mệnh lệnh READ. Sau đó, tôi lẳng lặng mang thẻ về bàn giấy mình và để chương trình chạy trong máy như thường lệ. Hai hôm sau, tôi và Dennis bị ông Wally phó tổng giám đốc gọi lên văn phòng. Trên tay cầm một xấp hồ sơ, ông rầy tôi, “Tôi vừa nhận được đơn kiện của IBEW Nghiệp đoàn Công nhân Ngành Điện Quốc tế. Họ phàn nàn ngày hôm kia anh đã vi phạm khế ước giữa nghiệp đoàn và công ty vì đã tự tiện dùng console trong phòng máy điện toán. Chỉ điều hành viên thuộc nghiệp đoàn mới có quyền đụng tới nó, anh biết chưa?” và ông quay sang trách Dennis, “Ba Hoa chưa quen làm việc với bọn Khai thác Dữ kiện, tại sao anh không chỉ cho anh ta biết?” “Thưa bác, việc đó do lỗi cháu¸ không dính dáng đến Dennis. Cháu đợi lâu quá mà điều hành viên biến đâu mất hết nên đã tự ý sai khiến máy đọc thẻ đọc vào máy điện toán,” tôi nhận lỗi và thuật lại sự việc. “Tôi bỏ qua cho anh lần này, nhưng luật lệ là luật lệ, khiếu nại của nghiệp đoàn sẽ ghi vào hồ sơ cá nhân của anh.” Về lại bàn giấy của mình, tôi hỏi Dennis, “Anh nghĩ tôi còn gặp rắc rối nữa không?” “Hiện tại, ngoài việc bị mấy tên điều hành viên cotton-picking nghênh nghênh nhìn, anh sẽ không bị phiền phức gì cả. Vì sếp Howard không ưa bọn nghiệp đoàn,” Dennis lắc đầu;“cotton-picking” là từ ngữ chung dùng để chỉ trích với ý không bằng lòng, trong trường hợp này có thể hiểu là “ba láp” hay “cà chớn.” “Nhưng sau này thì sao?” tôi chưa yên lòng. “Anh có tên trong sổ đen’ của nghiệp đoàn; vài chục năm nữa, cơ hội trở thành tổng giám đốc công ty của kỹ sư Ba Hoa’ sẽ kém đi một phần nào vì khi tuyển chọn, hội đồng quản trị có thể xét tới vụ này. Nhưng anh đừng lo; chúng mình không phải là dân đếm hạt đậu kế toán viên và cũng không là luật sư ăn gian nói dối, làm sao lên được danh sách ứng viên đó?” Ước gì từ phòng xuyên phiếu đến phòng máy điện toán, tôi chỉ đối phó với máy móc vô tri vô giác mà thôi. Con người sao lắt léo quá! Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 19 tháng Năm, 2021Giả Ngu Tìm Bọ Lễ Lao động, ngày thứ Hai đầu tiên của tháng Chín, được gọi là "ngày kết thúc không chính thức của mùa hè"; đó là lúc các sinh hoạt mùa hè chấm dứt. Ở Công ty Tiện ích Montana-Dakota MDU, cũng như các hãng xưởng khác, nhiều nhân viên đưa gia đình đi nghỉ hè trong hai tuần trước cuối tuần dài lễ Lao động, vì sau đó học trò đi học lại và từ đây cho đến cuối năm khó tìm được thời gian cả gia đình thong thả để cùng đi chơi xa. Đó cũng là lúc các môn thể thao mùa thu bắt đầu. Trong sở, anh bạn Charlie cầm tập giấy đi quanh “tuyển mộ” cầu thủ lập đội bóng chuyền; MDU sẽ bảo trợ đội bóng, nghĩa là trả các món lệ phí và tiền mua áo may-ô cầu thủ. Đội bóng chơi vào tối thứ Tư trong 14 tuần lễ ở sân vận động trong nhà của thành phố. Sự khuyến dụ của Charlie khiến tôi xiêu lòng xăm mình ghi danh vào đội, mặc dù trước đây chưa từng chơi môn thể thao này. Tối đầu tiên là buổi tập thử, huấn luyện viên kiêm trọng tài chỉ dȁn luật chơi và kỹ thuật giao banh, đỡ banh, nâng banh, đập banh, Mười hai tuần lễ kế tiếp là các buổi đấu thử giữa các đội cùng một league một hạng; đội MDU xếp vào hạng C là hạng thấp nhất. Hai ngày cuối tuần của tuần lễ cuối thì đấu tranh giải giành cúp vô địch có khắc tên cầu thủ toàn đội. Đội MDU thường đấu thua, người đóng góp nhiều nhất vào cuộc thất bại là tôi. Mặc dù các bạn đồng đội có tinh thần cạnh tranh muốn thắng, không ai trách cứ hay than phiền khi tôi đỡ banh trượt hay đánh banh văng ra ngoài lằn vạch trắng quanh sân. Ngược lại, khi tôi đánh một đường banh tạm được, họ la lên khen, “Good job!” Đánh giỏi!. Khi đội nhà đánh thắng một đường banh, cả bọn xúm lại đưa tay lên cao đánh vào nhau để tự tán dương. Anh bạn Dennis cũng chơi trong đội bóng chuyền MDU. Nếu xếp hạng, tôi đánh dở nhất thì anh đứng thứ nhì. Trong lúc tôi thấp và tay ngắn thường hứng hay đỡ banh hụt thì anh hay bị trọng tài bắt lỗi vì “bưng và ném,” nghĩa là thay vì hứng hay đỡ, anh xòe cả hai bàn tay đón bắt trước khi thảy banh sang phía đối phương. Óc hoạt kê đặc biệt của anh lại được dịp làm việc, anh bào chữa, “Tôi giữ banh trên tay hơi lâu vì tôi là kỹ sư chính hiệu,” và đưa ra câu chuyện khôi hài, Một nhà toán học, một nhà vật lý, và một kỹ sư được giao nhiệm vụ tìm thể tích một quả bóng. Nhà toán học lấy quả bóng đo đường kính rồi tính thể tích. Nhà vật lý nhúng quả bóng vào nước và đo lượng nước bị choán chỗ. Anh kỹ sư cầm trái bóng quay qua trở lại rất lâu. Để tìm số kiểu hàng! Số kiểu hàng kiểu xe, kiểu máy, là số hay ký hiệu đặc thù của một sản phẩm mà nhà sản xuất đặt ra để phân biệt với những sản phẩm khác. Ta có thể dùng số kiểu hàng để lục tìm tính chất của sản phẩm trong mục lục hàng hóa. Sau khi đánh banh, cả hai đội – đội nhà MDU và đội vừa giao đấu luân phiên hàng tuần – kéo nhau sang ba bar phía bên kia đường uống bia, go Dutch chơi theo lối Hòa Lan phần ai nấy trả. Khác với người Việt là tôi khi uống bia thì uống lấy uống để, uống cho nhiều, và nốc một hơi cho mau say, người Mỹ là bạn tôi gọi bia uốngthong thả, ngồi ở bàn mình hay đi quanh gặp người quen nói chuyện rỉ rả, và cả buổi tối chỉ uống một hay hai lon bia. Họ nói chuyện nhỏ nhẹ, không rượu vào lời ra la lối om sòm. Không ai ép bạn mình uống theo kiểu “rượu bất khả ép, ép bất khả từ.” Khi một người cần đi về, anh đứng dậy bye-bye; không ai nài nỉ bắt nán lại. Tôi kể cho các bạn nghe cuộc di tản đổi đời ra khỏi Sài gòn và nói lên tội ác của Việt Cộng và cuộc sống khốn khổ thê lương của đồng bào ở bên nhà. Dennis hãnh diện chỉ tay vào người tôi và đùa bỡn như thường lệ, “Vi Xi VC không hề biết họ đã mất đi một kho tàng vô giá. Ba Hoa ra đi, chỉ số IQ trung bình của các đại học ở Sài gòn giảm xuống còn 50 phần trăm.” IQ intelligence quotient là chỉ số thông minh của mỗi cá nhân và đo bằng phương pháp trắc nghiệm. IQ từ 85 đến 115 là mức thông minh trung bình, 130 trở lên là rất thông minh, và trên 145 thuộc hạng thiên tài. Dennis đang hướng dȁn tôi thảo chương FORTRAN, và tôi được ông sếp để cho tự do làm dự án mình thích nên quyết tâm vừa làm việc vừa học ngành khoa học điện toán tới nơi tới chốn. Dennis có bằng cao học về ngành học mới mẻ này; anh còn giữ sách giáo khoa và cả sách bài giải dành cho giảng viên vì ngày học cao học anh làm phụ giảng cho giáo sư. Tôi mượn sách của Dennis, ra công học hỏi, và nhờ anh giảng giải khi có điều gì không hiểu rõ. Nếu cần sách điện toán áp dụng mà anh không có, tôi xuất quỹ MDU đặt mua, và sách là tài sản của công ty, trên nguyên tắc nhân viên ai cũng có thể lấy dùng. Cần sách nghiên cứu thì tôi ra thư viện thành phố hay lên thư viện trường đại học cộng đồng hỏi mượn. Hai thư viện này nằm trong Hệ thống Liên-Thư viện nên nếu không có sách, họ mượn thư viện khác trong vùng và cho phép tôi giữ 30 ngày và có thể gia hạn. Khi mượn được cuốn sách hay, ngoài giờ làm việc tôi vào sở photocopy và đóng lại thành tập để lưu giữ. Xem ra MDU cung cấp đầy đủ phương tiện cho tôi học hỏi, không học thật . . . phí của đời. Khi nói chuyện với nhau, tôi và Dennis hay dùng thuật ngữ điện toán và danh từ kỹ thuật đặc biệt ít người hiểu. Giờ nghỉ giải lao hai đứa xuống câu lạc bộ cùng với nhau. Một hôm, một anh kỹ sư cơ khí thuộc nha Sản xuất xuống trễ, các bàn kia hết chỗ nên đến ngồi chung bàn với chúng tôi. Mười phút sau, anh ta cầm ly cà-phê đứng dậy, “Nghe các anh nói thứ tiếng gì quái dị, tôi trở lại bàn giấy ngồi uống cà-phê một mình dễ chịu hơn.” Đến mùa xuân 1977, tôi nghĩ mình đã hấp thu hết kiến thức điện toán của Dennis và có thể trội hơn vì tôi giỏi toán hơn, có căn bản khoa học vững chắc hơn, và do tính cầu toàn, chịu khó học hỏi tường tận hơn anh. Lúc này kỹ thuật thảo chương của tôi đã vững vàng và được Dennis và ông sếp tin tưởng và giao phó nhiệm vụ nghiên cứu và viết các chương trình FORTRAN mới cho nha Điều hành Hệ thống Điện. Công tác bao gồm việc thiết lập phương pháp khảo sát, thu thập dữ kiện chạy máy, viết cẩm nang cho người sử dụng, và phổ biến đến các nhân viên kỹ thuật trong công thu năm ấy, công ty mua chiếc máy điện toán Prime 400 dành riêng cho Tổng nha Kỹ thuật Điện và đặt dưới quyền điều hành của Dennis và tôi. Prime là một loại máy điện toán thu nhỏ có khả năng tính toán cao và cho phép nhiều người sử dụng cùng một lúc. Người sử dụng điều khiển trực tiếp máy Prime bằng cách đánh mệnh lệnh vào bàn chữ của trạm điện toán computer terminal. Trạm này là một dụng cụ điện tử dùng ống tia âm cực cathode ray tube chiếu mệnh lệnh của người sử dụng lên màn hình và nối liền với máy Prime bằng dây cáp chạy ngầm trên trần hay dưới sàn nhà. Hệ thống Prime hoạt động được phần lớn là nhờ sự phát minh ra những chương trình điện toán gọi là “text editor.” Chương trình này cho phép người sử dụng tạo ra và sửa đổi các văn bản chứa ký tự và mệnh lệnh điện toán. Mỗi hàng trong văn bản tương ứng với một thẻ điện toán trước đây dùng cho những máy điện toán lớn như hệ thống Honeywell của MDU. Text editor khiến cho thẻ điện toán, máy xuyên phiếu, và xuyên phiếu viên trở thành chuyện quá khứ và đang chìm vào quên lảng. Bộ phận dĩa dùng để lưu trữ dữ kiện của máy Prime chiếm nguyên một chiếc tủ thấp nhưng chỉ có khả năng chứa 80 MB megabyte, tức là một triệu byte. Một flash drive USB bằng ngón tay cái hiện nay có thể chứa 32, 64, hay 128 GB gigabyte, tức là một tỉ byte, tức là 400, 800, hay 1,600 lần bộ phận dĩa tân kỳ năm 1977. Được tùy nghi sử dụng máy Prime, tôi không mơ ước gì hơn. Tôi có quyền chạy máy bất cứ lúc nào, áp dụng vào dự án tùy ý chọn làm, và học hỏi những điều mình thích. Nhớ nghề dạy học cũ, mỗi chiều thứ Năm tôi mở lớp dạy các bạn kỹ sư thảo chương FORTRAN và luyện thi kỹ sư chuyên nghiệp Professional Engineer để đăng bộ hành nghề ở tiểu bang. Tôi say mê làm việc và học hỏi bất kể giờ giấc. Tôi mà vào sở ban đêm hay cuối tuần, dù chỉ định bụng ghé một lát rồi về nhà, nhưng lúc nào cũng mải mê làm việc quên giờ về, Quỳnh Châu phải điện thoại vào gọi về đi ngủ hay ăn cơm. Đôi khi nàng nhắc khéo, “Chông mê làm việc quá, cu Mạc quên mặt ba rán chịu đó.” Dần dần tôi nổi tiếng về khả năng kỹ thuật và thảo chương trong Tổ hợp Điện lực Vùng Điện lực Trung-Lục địa gọi tắt là MAPP mà MDU là hội viên. Tổ hợp này gồm cơ quan trong bảy tiểu bang Hoa kỳ và hai tỉnh Gia Nã Đại hợp thành với mục đích giúp hội viên mua bán điện với nhau và giúp đỡ lȁn nhau. Các công ty hội viên đều có máy Prime và chia xẻ chương trình FORTRAN và dữ kiện để khảo sát hệ thống điện của toàn tổ kỹ thuật của MAPP kháo nhau tôi có biệt tài debug có một không hai. Trong ngôn ngữ điện toán, “debug” là tìm chỗ sai trong một chương trình điện toán, do chữ “bug” là con bọ, là chỗ sai. Thảo chương là một nghệ thuật theo đó thảo chương viên theo quy tắc định sẵn ghép các mệnh lệnh với nhau theo ý mình để hoàn tất một mục đích tính toán nào đó. Khi chương trình hoàn thành và chạy không đúng, giai đoạn debug gian nan bắt đầu. Thảo chương viên vò đầu bứt tai, đọc đi đọc lại từng dòng mệnh lệnh, và thử lui thử tới với các cách sửa đổi khác nhau. Phần lớn các cuộc debug mất nhiều thì giờ nhưng rồi cũng thành công, và chương trình được sửa đổi thích ứng để sử dụng; nhưng có một số chương trình không bao giờ “chạy.” Là người chịu trách nhiệm về sự hoạt động của máy Prime, tôi và Dennis thường phải nghe các bạn đồng sự than phiền khi chương trình “cứng đầu” không chịu chạy cho đúng theo ý họ. Họ cả quyết “đáng lẽ nó phải làm . . .” nhưng máy điện toán không làm thế hay “chuyện . . . không thể xảy ra” nhưng thực sự chuyện đó đã xảy ra. Đôi khi họ quy lỗi cho máy điện toán như “ký ức có đốm hư” hay “chương trình biên dịch chạy sai.” Chương trình biên dịch compiler chuyển mệnh lệnh FORTRAN nguồn thành ra chương trình thừa hành mà người sử dụng có thể gọi ra và sai khiến làm việc. Khi giúp bạn debug một chương trình, tôi bỏ ngoài tai lời bàn Mao Tôn Cương của tác giả, lần theo từng dòng mệnh lệnh một, kiên nhȁn kiểm chứng lại nhiệm vụ của mỗi mệnh lệnh, và nhất là không “giả sử” nó “phải” làm như thế này, hay như thế kia. Vì tuy với cùng một mệnh lệnh FORTRAN, máy của International Business Machines IBM, Honeywell, và Prime có cơ cấu khác nhau có thể đưa tới kết quả khác nhau. Đồng thời, tôi quên đi định kiến của tác giả. Anh bạn thuộc nằm lòng phương pháp tính toán lý thuyết, trong đầu đã nhất định cho rằng máy điện toán chạy sai, và không hình dung ra rằng máy điện toán chỉ là vật vô tri vô giác không hiểu lý luận hợp lý của anh mà chỉ thi hành lệnh anh phán dạy. Do đó, cách debug của tôi là play dumb giả ngu như máy điện toán. Tưởng tượng mình là người máy, thiên lôi chỉ đâu đánh đó, và để cho mệnh lệnh của chương trình đưa đẩy từng bước một tới chỗ sai. Cái “bug” tìm thấy thường là một lỗi lầm đơn giản, ai cũng có thể thấy nhưng không ai ngờ đến. Mỗi lần debug thành công, tôi về nhà hãnh diện khoe phép thuật “giả ngu tìm bọ” của mình với Quỳnh Châu. Nàng cười lắc đầu, không đồng ý, “Cách debug của anh dùng hai đức tính cần thiết. Một là kiên nhȁn, bền chí như Thomas Alva Edison. Hai là tưởng tượng, một khí giới tối quan trọng của nhà khoa học; Albert Einstein nói, Tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức.’ Chồng em là một khoa học gia đích thực, quên rồi sao?” Được vợ khen, tôi thích chí nhưng ngoài mặt vờ khiêm nhường giễu cợt, “Em dạy quá nhời lời làm chồng hỉnh mũi to bành sư đây nè.” Và tôi yêu nàng vô cùng. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 7 tháng Bảy, 2021Vẫn Chiến Đấu Âm Thầm Đêm thứ Tư là đêm đánh bóng chuyền của tôi và sáu, bảy anh bạn cùng sở. Sau khi đánh banh, chúng tôi và đội vừa giao đấu kéo nhau sang ba bar The Covered Wagon bên kia đường uống bia. “Covered wagon” là chiếc xe ngựa bốn bánh có mái che kín, và “The Covered Wagon” là tên cuốn phim cao bồi câm phát hành năm 1923 thuật lại cuộc hành trình qua vùng Miền Tây Xưa từ Kansas đến Oregon của một nhóm người đi khai hoang. Họ đi qua sa mạc nóng bỏng và núi tuyết lạnh lẽo, chịu đói khát, và thường xuyên lo sợ thổ dân Da đỏ tấn công. Ở The Covered Wagon, tôi kể cho bạn nghe cuộc di tản ra khỏi Sài gòn và giải bày tại sao tôi bỏ xứ ra đi. Tôi sinh ra ở Quảng Bình nằm phía bắc vĩ tuyến 17. Sau khi Hiệp định Genève chia đôi đất nước được ký kết vào tháng Bảy năm 1954, tôi theo mẹ di cư vào Nam; chúng tôi “bỏ phiếu bằng chân” để tránh nạn Cộng sản. Ông tôi ở lại với quê hương và bị chính quyền phát động phong trào “cải cách ruộng đất” đấu tố, giết chết, và cướp đoạt tài sản. Số nạn nhân như ông tôi lên tới hơn nửa triệu người; họ mất mạng mất của vì bị gán cho tội “địa chủ,” tức là sở hữu chủ một đám ruộng hay một mảnh vườn. Đồng thời, với khẩu hiệu “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ,” Việt Cộng quyết tâm triệt hạ ra khỏi xã hội bốn “giai cấp” chúng liệt vào hạng kẻ thù trí thức, buôn bán “phú thương” hay “con buôn”, địa chủ, và nhà giàu “cường hào”. “Giai cấp công nông” nghèo khó vô học còn lại cũng không may mắn gì hơn. Họ không có một mảy may tự do làm người nào cả, ngoài bổn phận tuân theo chỉ thị của “đảng,” tức là một thiểu số lãnh tụ ngu dốt và tàn nhẫn. Sau khi chiếm được miền Nam năm ngoái 1975, Việt Cộng lại dở trò “đánh tư sản mại bản” công khai tra khảo, hành hạ, và cướp bóc những thương gia và gia đình chúng quy tội giàu có. Chúng ra lệnh nhân dân miền Nam đổi tiền, đem tiền cũ Việt nam Cộng hòa “VNCH” đổi lấy tiền Việt Cộng; mỗi gia đình chỉ được đổi một món tiền nhỏ, còn lại bao nhiêu kể như mất bỏ. Trong một ngày, người dân bị cướp hầu hết tiền bạc mồ hôi nước mắt dành dụm cả một đời. Chúng bắt “ngụy quân ngụy quyền” là quân nhân và công chức VNCH đi “học tập cải tạo,” tức là đi lao động khổ sai. Họ ở tù không tội trạng, không tuyên án, và không biết ngày được bạn Mỹ của tôi kinh ngạc, “Sao trên thế giới ngày nay lại có một chính thể gian xảo ác độc đến thế? Làm sao dân chúng sống nổi?” “Không nổi cũng phải sống thôi. Ở Sài gòn, mỗi khu phố được đặt dưới quyền một tên công an khu vực. Nó có quyền xông vào nhà anh bất cứ lúc nào, khám xét bất cứ xó xỉnh nào trong nhà, và tra hỏi anh về bất cứ điều gì. Nó công khai kiểm duyệt thư từ anh gửi đi, mở và đọc trước thư đến, và ra lệnh cho anh viết thư trả lời cho đúng đường lối của đảng.’ Nó có quyền sinh sát tuyệt đối với anh và gia đình.” “Nếu không tuân lệnh hay làm điều gì anh ta không vừa lòng thì sao?” “Nhẹ thì bắt đi học tập,’ tức là đi ở tù không biết ngày về để thuấn nhuần chính sách của đảng.’ Nặng thì đêm khuya công an đến nhà gõ cửa và bắt đem đi; không ai biết đi đâu, sống hay chết.” Charlie và vợ là Judy là đôi bạn đầu tiên và thân nhất của tôi ở Bismarck. Judy dạy Anh văn ở trường trung học Bismarck, trường hai em Lâm và Trọng đang học. Một hôm, sau trận bóng chuyền, anh hỏi tôi, “Anh nghĩ thế nào về Hồ Chí Minh?” “Bọn Việt Cộng thổi phồng ông là bác Hồ vĩ đại’ đáng tôn sùng hơn thần thánh. Nhưng với tôi và phần lớn các người Việt khác, ông là kẻ phạm tội, là kẻ đại gian đại ác lớn nhất trong lịch sử Việt nam,” tôi trả lời ngay. “Nếu có cơ hội vạch mặt ông Hồ, anh dám làm không?” Charlie cười cười. “Bất cứ lúc nào. Nhưng làm sao?” “Judy dạy các lớp 12 và muốn mở rộng tầm kiến thức của học sinh nên định mời anh nói chuyện về ông Hồ để cho học sinh mở mắt ra. Học sinh sinh viên ngày nay mù tịt về tình hình thế giới và ít khi đọc báo hay xem tin tức trên ti-vi – ngoại trừ theo dõi tin tức thể thao. Anh thấy sao?” Tôi hăng hái nhận lời và ra công soạn một bài thuyết trình khá công phu. Tôi tưởng chỉ nói chuyện với lớp Anh văn của Judy, nhưng khi đến trường mới biết cử tọa gồm tất cả các lớp 12. Họ tụ tập trong phòng tập thể dục và khi hết chỗ trên băng ghế dài, ngồi bệt trên sàn xi-măng. Sau khi tôi trình bày tường tận tội ác của Việt Cộng, các học sinh 18, 19 tuổi thay nhau đặt câu hỏi và cho thấy họ không “mù tịt về tình hình thế giới” như Charlie nói. Họ chỉ ngây thơ và xem tự do họ đang thụ hưởng là lẽ dĩ nhiên. Họ tin lời tôi, nhưng “huyền thoại Hồ Chí Minh” do bộ máy tuyên truyền Cộng sản tạo ra không dễ dầu gì mà xua tan. Ông Hồ theo Cộng sản không phải vì lý tưởng cách mạng mà vì miếng cơm manh áo. Ngày còn nhỏ, ông theo học trường Quốc Học Huế, ngôi trường trung học tôi học sáu mươi năm sau. Sau hai năm học lớp 6 và lớp 7, ông bị đuổi học; Việt Cộng khoe ông bị đuổi vì tham gia vào cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế, nhưng thực ra cuộc biểu tình ấy xảy ra trước ngày ông được nhận vào trường đến bốn tháng. Thử làm nghề dạy học tư một thời gian mà không đi tới đâu, ông làm đơn gửi vị toàn quyền người Pháp kể lể công lao của cha ông đối với triều đình Huế và cầu xin đặc ân cho vào học trường Hậu bổ Hà nội là trường đào tạo công chức người Việt cho bộ máy hành chánh thuộc địa. Đơn không được cứu xét vì ông chỉ học chưa hết lớp 7 mà điềukiện nhập học đòi hỏi diplôme tức là bằng Thành chung Trung học đệ nhất cấp thi sau khi hoàn tất chương trình lớp 9. Thất vọng, thất nghiệp, và đói rách, ông Hồ tìm đường sang Pháp tha phương cầu thực bằng cách xin làm việc vặt trên một chiếc thương thuyền để được ăn uống và đi tàu miễn phí. Ông xuống bến tàu Marseille – không tiền, không người quen, và đói lạnh. Thuở ấy, và cho đến ngày nay, đảng Cộng sản Pháp dụ dỗ cảm tình viên bằng cách đón các kẻ lang thang cầu bơ cầu bất ở bến tàu hay ga xe lửa, mang về cho ăn ở, và rủ rê gia nhập đảng. Dĩ nhiên, ông sướng điên lên và chớp ngay lấy cơ hội này. Nhờ bản tính lưu manh nham hiểm và giỏi biến trá, ông được tin cậy và thăng tiến nhanh, đưa sang Nga huấn luyện, và chuyển sang Tàu hoạt động. Phần lịch sử còn lại do Cộng sản viết, không biết chứa bao nhiêu phần trăm sự thực. Một nữ sinh đưa tay chất vấn, “Ông có thể cho thí dụ về sự tàn ác của ông Hồ không?” “Ông Hồ là thủ phạm gây ra những khổ đau dân tộc Việt nam đang gánh chịu. Trên hết, chính ông đã chủ trương và gây ra cuộc chiến Bắc - Nam tương tàn khiến ba triệu rưỡi thường dân và quân nhân hai bên bị hy sinh oan uổng. Kế đó, trong phong trào cải cách ruộng đất,’ có đến nửa triệu người, trong số đó có ông nội tôi, bị thảm sát. Khi quân đội miền Bắc sắp nổi loạn vì vụ này, ông lên đài phát thanh vờ nhỏ vài giọt nước mắt cá sấu và nói mấy câu xin lỗi; thế là . . . huề tiền!” “Sao tôi nghe nói ông Hồ suốt đời sống độc thân hiến mình cho quốc gia dân tộc?” một nam sinh đứng lên hỏi. “Bịp bợm láo khoét là nghề của Cộng sản. Ông Hồ lấy vợ có hôn thú tại Mạc Tư Khoa ở Nga sô, bà này là người Việt và cũng là đảng viên Cộng sản. Ông cũng chính thức có vợ người Tàu khi hoạt động bên Tàu. Trong nước, ông giấu giếm một lô tình nhân và con tư sinh. Là người dâm dục, ông thường ôm hôn hít các cháu gái nhi đồng’ trước công chúng và bí mật tuyển lựa những cháu gái’ trẻ tuổi vừa mắt để phục dịch bác’ – dĩ nhiên phục dịch cả nhu cầu tình dục!” Một buổi tối khác, tôi ngồi uống bia và chuyện trò sau trận bóng chuyền thì một thanh niên trạc ba mươi tuổi, hình dạng cao lớn, và có bộ râu quai nón từ bàn bên cạnh bước sang bắt tay tôi và tự giới thiệu là Doug tên tắt của Douglas, “Tôi nghe lóm chuyện của anh và thấy thích thú nên mạo muội sang làm quen.” “Nếu tôi không lầm thì anh là cựu chiến binh Việt nam?” tôi đoán chừng. “Đúng vậy,” Doug buồn bã nói, “Vào thời chiến tranh, hàng ngày giới truyền thông thiên tả thân Cộng ở Hoa kỳ nhét vào đầu dân chúng những hình ảnh chết chóc khủng khiếp và quy lỗi hoàn toàn cho quân đội Mỹ. Ngay cả chiến binh Mỹ cũng mù mờ không hiểu rõ mục tiêu của cuộc chiến. Năm 1973, họ trở về nước thì bị nhiều kẻ quá khích phỉ nhổ và mắng nhiếc là kẻ sát nhân giết đàn bà và trẻ em. Tôi muốn biết ý kiến của anh về sự tham chiến của Hoa kỳ ở Việt nam.” Doug cho biết anh sang Việt nam năm 1964, phục vụ trong một đơn vị bộ binh đóng ở An Lỗ nằm giữa Huế và Quảng Trị. Cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 của Việt Cộng xảy ra vào cuối nhiệm kỳ thứ hai của anh, anh chiến đấu sát cánh một đơn vị Thủy quân Lục chiến VNCH để táichiếm Thành Nội Huế. Cuối năm 1968, anh về Mỹ, giải ngũ, đi học ngành kỹ sư kỹ nghệ, và hiện làm việc cho một công ty chế biến thực phẩm. Tôi nhìn thẳng vào mắt anh, “Ba chục triệu dân miền Nam đã chịu ơn các anh sâu nặng. Gần 60 ngàn chiến binh đã nằm xuống; các anh đã đổ máu cho chúng tôi và cho chúng tôi sống trong tự do và no ấm thêm 20 năm. Nghĩa cử và hy sinh của các anh cao đẹp biết bao!” “Tôi tưởng người Việt oán hận chúng tôi về những tàn phá, đổ nát, và chết chóc chứ,” mắt anh sáng lên. “Ai cũng biết ông Hồ và Cộng sản miền Bắc hung ác hiếu chiến xua quân vào để chiếm trọn miền Nam. Người Mỹ giúp chúng tôi vì chúng tôi không đủ sức chống lại, và sau một thời hạn nào đó vì quyền lợi của nước Mỹ, các anh phải rút lui thôi. Dĩ nhiên cũng có một số người Việt kiếm cách đổ lỗi và oán hận Hoa kỳ đã bỏ rơi bạn đồng minh,’ trong khi chính họ là những kẻ trốn chạy trước tiên.” “Vậy mà bao năm nay tôi trăn trở dằn vặt vì đã tham dự vào cuộc chiến đȁm máu ấy,” anh khẩn khoản, “Mời anh đến giải thích với bạn tôi. Bọn tôi ai nấy đều mắc phải PTSD và mong là khi nhận ra sự thực, sẽ gột rửa bớt ám ảnh và mặc cảm dồn nén trong lòng mà trở lại bình thường.” PTSD viết tắt của Post-Traumatic Stress Disorder là hội chứng tâm thần xảy ra cho người đã trải qua hay chứng kiến các biến cố quá khổ đau. Anh Doug giới thiệu tôi với sáu, bảy cựu chiến binh ăn mặc lôi thôi lếch thếch, râu tóc bờm xờm, và chúng tôi vừa thảo luận vừa uống bia ăn thịt nướng ở sân sau nhà anh. Ban đầu họ thắc mắc nghi ngờ và gay gắt chất vấn, nhưng tôi cứ theo sự thực mà giải thích và trả lời. Khi chia tay, từng người đến bắt tay tôi, “Cám ơn anh. Bây giờ, tôi bắt đầu thấy hãnh diện là cựu chiến binh Việt nam.” “Không, chính tôi mới là người thọ ân các anh,” tôi nghiêm mặt đáp. Cuộc chiến đấu chống Cộng âm thầm của tôi tiếp tục với những lần nói chuyện với các trường trung học và nhóm cựu chiến binh khác. Tiếng lành đồn xa, tôi được mời thuyết trình ở trường đại học cộng đồng, trường đại học điều dưỡng, bệnh viện Cựu Chiến binh tại North Dakota, và các buổi lễ nhà thờ sáng Chủ Nhật. Cuối tháng Giêng 1976, chi hội North Dakota của Veterans of Foreign Wars VFW nhóm họp đại hội thường niên tại Bismarck và mời tôi dự dạ tiệc kết thúc đại hội với tư cách diễn giả chính. VFW là hội những cựu chiến binh phục vụ trong các cuộc chiến tranh, hành quân, và viễn chinh trên lãnh thổ, hải phận, hay không phận ngoại quốc. Cử tọa gồm trên 300 người. Họ đứng dậy vỗ tay hoan hô khi tôi kết thúc bài diễn văn, Cám ơn VFW cho tôi cơ hội phơi bày cho thế giới biết những khổ đau và áp bức trên quê hương Việt nam yêu dấu và tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với những cựu chiến binh Việt nam. Đêm hôm đó, tôi ngủ mơ thấy mình biến thành Superman bay về Việt nam giúp khôi phục đất nước. Sáng ra tỉnh dậy thấy mặt mình ướt sũng nước mắt. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 23 tháng Sáu, 2021Lý Lẽ của Trái Tim Trong bữa cơm chiều, tôi cười nửa miệng thuật lại mẩu chuyện mới nghe kể trên sở về một tình huống oái oăm, Một thiếu phụ trung niên buồn rầu than thở, “Chồng tôi bước vào cuộc khủng hoảng tuổi trung niên. Anh bỏ tôi và các con để đi theo một người đàn ông.” Không chú ý đến khía cạnh hài hước của chuyện “bỏ vợ theo trai,” Quỳnh Châu chăm chăm nhìn nghiêng vào mặt tôi rồi reo lên, “Ha ha, chồng để tóc dài làm hippie và thò cái đuôi chuột sau ót kìa. Mẹ nói người có đuôi chuột có đông em, kết giao rộng rãi, và rất bướng bỉnh. Đúng y chang!” “Má cu Mạc hôm nay bị hồn ma bóng quế nào nhập vào người hay sao mà trổ nghề làm thầy bói sáng,” tôi trêu nàng. “Có gì đâu, em thấy tóc anh dài cần hớt tóc cho thợ có việc làm,” nàng cười hóm hỉnh. Tôi tiếp tục đùa với Quỳnh Châu, “Anh cần lấy hẹn với cô thợ hớt tóc. Không biết lúc nào cô ấy mới rảnh?” “Chồng có thời khóa biểu của cổ mà,” nàng cười khúc khích vì “cô ấy” chính là nàng, “Còn có một cô thợ hớt tóc nhà nghề, đẹp tuyệt vời, khéo tay hay miệng, và sẵn sàng o bế mái tóc còn . . . xanh của chồng. Có cần em hẹn giùm không?” “Em muốn nói chị Mỹ?” tôi bỗng chột dạ hỏi lại. “Dạ phải, chỉ lo cho anh còn hơn lo cho anh Mỹ, tội ghê! Chỉ cho em bộ kéo cắt và xén tóc chuyên nghiệp và dạy em cắt tóc cho anh đó,” nàng vô tình không thấy vẻ mặt nao nao của tôi. Vợ chồng ông Mỹ đến định cư ở Bismarck trước chúng tôi và là hai người Việt đầu tiên tôi gặp ở thành phố này. Họ tình cờ gặp Quỳnh Châu ở Đại học Cộng đồng Bismarck khi đưa cậu con trai lớn đi ghi danh học chương trình tiền y khoa. Ông chồng trạc tứ tuần dáng béo tốt cục mịch, nói giọng Nam rổn rảng, và làm ca đêm cho xưởng dây chuyền lắp ráp của hãng chế tạo máy cày. Ông phách lối hỗn xược khiến cho những người Việt khác ở đây hầu như ai cũng đã đòi đánh ông một vài lần. Bà vợ – chị Mỹ – trông trẻ trung hơn chồng, khuôn mặt phúc hậu, và dáng người thon thon. Chị thân thiết với Quỳnh Châu và đối xử với nàng như chị với em. Chị chỉ dạy nàng từng li từng tí từ cách nấu ăn, đến nuôi con, may vá, mua sắm, Chị làm thợ uốn tóc, trong tuần nghỉ ngày thứ Năm, lại nhà tôi chơi cả ngày, và cùng Quỳnh Châu nấu đồ ăn cho tôi đi làm về ăn. Chị căn dặn Quỳnh Châu, “Em rán nấu thật ngon cho ảnh ăn. Hồi đi học, ảnh ăn uống thất thường bữa có bữa không, tội lắm.” Bốn năm sau, cậu con trai lớn tốt nghiệp Cử nhân Sinh học và gửi đơn xin học nhiều trường y khoa, nhưng không được trường nào nhận. Sau đó, ông bà Mỹ rời Bismarck lúc nào không hè năm 1985, tôi có dịp viếng thăm nam California, vào một siêu thị Á đông, và bỗng nghe ai gọi tên sau lưng. Tôi luống cuống thấy chị Mỹ đi một mình và thấy chị xinh đẹp hơn bao giờ hết. Chị đưa mắt hỏi, “Ủa, Châu đâu mà không thấy?” “Châu ở nhà, tôi đi công tác ở bắc California rồi ghé xuống đây,” tôi bối rối trả lời. “Anh lúng túng như thợ vụng mất kim, ngó y hịch như hai lần đầu tiên gặp tui – lần trước ở nhà Yên Đổ, và lần sau ở Bismarck,” chị cười chúm chím. “Ông Mỹ khỏe không?” tôi dớn dác nhìn quanh. “Tui không biết. Tụi tui đã chia tay, anh đi đường anh, tôi đường tôi,” chị thân mật nắm tay tôi, “Anh Mỹ ra đi và Châu không có đây, hai đứa mình không còn lý do gì để tiếp tục đóng vai người dưng kẻ lạ. Ba Hoa nhớ nhỏ này là Nguyệt Thu nghen.” Phải, “chị Mỹ” tên là Nguyệt Thu và quen thân với tôi từ mùa thu 1966, thời gian khó khăn nhất đời tôi, một sinh viên chưa tròn 18 tuổi. Tôi mất học bổng du học Gia Nã Đại vì ngày học trung học nghịch ngợm phá phách khiến ông hiệu trưởng đem lòng thù vặt và báo cáo dối là học bạ giả. Vào kỳ thi cuối khóa đệ nhất niên kỹ sư điện, tôi lại bị giáo sư trù, cho điểm zero khiến phải ở lại lớp. Cha nổi giận cấm tôi về nhà và không cho mẹ vào Sài gòn thăm. Suốt mùa hè, tôi sống một mình trên căn gác trọ nóng hâm hấp, tâm hồn bị đầu độc bởi triết lý “cuộc đời phi lý và buồn nôn” trong tiểu thuyết hiện sinh bọn sinh viên chúng tôi ngưỡng mộ một cách mù quáng, và hàng đêm tôi ray rứt tự hỏi nên tình nguyện đi lính hay kết liễu đời mình. Đến mùa thu, tôi lạc lõng bước vào lớp học, bạn cũ đã lên lớp trên, và bạn mới nhìn tôi với đôi mắt khinh bỉ, không muốn dính dáng với đứa học đúp do tiếng Pháp “double”. Rồi tôi vớ được thằng Thu; nó mới vào học lớp Công chánh, và chúng tôi học chung các môn khoa học cơ bản. Năm kia nó học đệ nhất lớp 12 ở Ban Mê Thuột cùng với tôi và học rất kém, vậy mà nay trúng tuyển vào trường Công chánh! Sau giờ Hỏi bài giờ học hàng tuần giáo sư ra tay sát hạch khả năng của sinh viên đầu tiên, các bạn Công chánh cầm chắc thằng Thu đậu vào là nhờ tiền bạc đút lót hay thần thế “con ông cháu cha” nên không làm bạn với nó. Tôi và nó, hai thằng bạn cũ trước không chơi thân bây giờ đi đâu cũng có nhau. Một hôm thằng Thu kêu tôi đến nhà nó chơi; đó là một biệt thự lớn trên đường Yên Đổ xe chạy một chiều. Tôi bấm chuông gọi cổng không thấy ai ra nên đứng gọi tên Thu ơi ới. Một thiếu phụ độ hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi, tóc xõa ngang vai, và dáng dấp thanh nhã ra mở cổng. Tôi đâm ra lúng túng, “Dạ Thu có nhà không ạ?” “Thu đứng trước mắt Ba Hoa, không thấy sao?” nàng vừa nói vừa cười, trong khi tôi ngơ ngác nhìn quanh không thấy ai khác. “Nếu Thu bận việc hay đi vắng, hôm khác tôi trở lại vậy,” tôi nói lúng búng. “Thu ra mở cửa là Nguyệt Thu, con gái. Cậu em Xuân Thu có chút việc ra ngoài, nhờ mình đón và mời Ba Hoa vào nhà,” nàng cười giải thích. Lần đầu tiên chuyện trò tay đôi với một người đàn bà lịch thiệp và sang trọng, tôi khớp quá nên ngồi trong phòng khách mà thần trí lãng đãng tận đâu đâu. Nguyệt Thu khôn khéo và thân thiện gợi chuyện cho tôi nói, và khi Thu bạn tôi về tới nhà, tôi đã thấy thoải mái và thích thú mời nàng ngồi nán đó, tôi thường kiếm cớ đến nhà thằng Thu và lại mong nó không có nhà để gặp riêng Nguyệt Thu. Ngôi biệt thự của cha mẹ nàng, nhưng tôi chưa bao giờ gặp ông bà. Nàng ở đó với hai cậu con trai, đứa lớn chín tuổi và đứa nhỏ sáu tuổi. Nàng là người đầu tiên và duy nhất mà tôi không ngại ngùng trút hết nỗi niềm tâm sự. Nàng an ủy khuyên lơn và dẫn dắt tôi vượt qua những khó khăn và bế tắc trong tâm tư. Khoan dung và khuyến lệ như một người mẹ, và âu yếm và ngọt ngào như một người tình. Nhờ Nguyệt Thu, tôi dần dần phục hồi niềm vui ham sống, thiết tha hơn với bài vở, và đến kỳ thi cuối khóa, đậu hạng nhì lên đệ nhị niên. Ai cũng đoán trước được kết quả thi cử của thằng Thu Không những nó hỏng không được lên lớp, mà còn không đủ điểm để được học lại nên bị xoọc-ti lát “sortie laterale” tiếng Pháp là ra trường ngang, tức là bị đuổi học. Buổi tối ngày có kết quả thi, tôi và thằng Thu đưa nhau ra bến xe đường Phan văn Hùm ở Ngã Sáu Sài gòn, ngồi ghế thấp quán nhậu vỉa hè, và gọi khô mực uống bia Larue chai lớn. Lần đầu tiên tôi uống bia thả cửa, ly mày ly tao và cụng ly như người lớn, và cũng là lần đầu tiên tôi say rượu. Hai thằng lảo đảo dìu nhau về nhà nó, ngủ chung giường trong phòng nó. Nửa đêm, tôi thức dậy đi tiểu rồi an nhiên về phòng ngủ tiếp. Chìm đắm trong hơi men, tôi chập chờn mơ thấy mình ôm hôn say đắm cô học trò dạy kèm thương yêu mà không dám ngỏ lời và được đáp ứng tận tình. Khoảng năm giờ sáng, tôi trở mình thức giấc và ngạc nhiên cùng tột thấy Nguyệt Thu nằm trong vòng tay mình. Nàng ngước mắt nhìn và dịu dàng mỉm cười, “Nằm đây với Thu mà suốt buổi gọi mãi cô Châu, Ba Hoa thật chung tình.” Tôi sợ hãi nhổm dậy nhìn quanh; thì ra hồi khuya tôi trở về nhầm phòng. Tôi nhảy xuống giường và trên đường về phòng thằng Thu, nhận ra mình đã phạm một tội tày trời khác Căn phòng tôi tưởng là nhà vệ sinh thật ra là phòng chứa đồ cổ quý giá của cha thằng Thu. Tôi mặc vội quần áo và tất tả chạy bay ra đường; hết giờ giới nghiêm, xe cộ bắt đầu nhộn nhịp. Không dè hơn tám năm sau, tôi gặp lại Nguyệt Thu trên đất Mỹ – với ông Mỹ chồng nàng. * * * Tôi và Nguyệt Thu sang tiệm phở gần siêu thị để trò chuyện và ăn trưa. Nàng lấy giấy lau đũa muỗng cho tôi, gọi thức ăn cho cả hai đứa, và săn sóc tôi như vợ lo cho chồng. Nàng đang làm chủ một tiệm uốn tóc lớn có sáu, bảy người thợ và sống một mình trong ngôi biệt thự nhỏ gần bãi biển ở Santa Monica. Nói về chồng cũ, nàng không tỏ một thoáng oán hờn, “Anh Mỹ là con một trong một gia đình giàu có bậc nhất Sài gòn, cha ảnh và ông già Thu là đôi bạn thân. Lúc tụi Thu còn nhỏ, hai ông già uống rượu với nhau và hứa chuyện lứa đôi của hai đứa. Năm ảnh vừa được mười tám tuổi, ông già ảnh giục làm đám cưới gấp, nói cưới vợphải cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha. Thu cũng tin vậy, nhưng sau này mới biết mình lầm.” “Ông Mỹ có tật bệnh bẩm sinh nào đó hay sao?” tôi chồm tới hỏi. “Từ hồi nhỏ ảnh đã tỏ ra là tình dục đồng giới, ông già biết vậy nên bắt ảnh lấy vợ sớm, hy vọng nhờ lập gia đình sinh con đẻ cái, ảnh sẽ thành bình thường như người khác. Nhưng chỉ qua được mấy năm đầu, thời gian mà Thu sinh ra hai thằng con lớn, rồi thôi. Sau ngày cha mẹ ảnh mất, ảnh gặp Quân Bảo là một ca sĩ trẻ tuổi đẹp trai mới vào nghề, bị tiếng sét ái tình,’ và bỏ Thu và con đi theo chàng ta. Thu hết nước nói, đem hai con về sống với ba má.” Nhớ lại ngày cũ, tôi thấy ân hận, “Ngày đó Thu khổ sở như vậy mà tôi ích kỷ, chỉ lo than thở chuyện mình, và vô tình chồng chất thêm gánh nặng vào lòng Thu. Chắc Thu rầu lắm?” “Không đâu. Nhờ Ba Hoa tâm sự mà Thu thấy nỗi khổ của mình dịu bớt, và những lời khuyên nhủ Ba Hoa, Thu đem áp dụng lại cho chính mình để chống chõi với những đêm dài trằn trọc; càng ngày càng thấy bớt buồn phiền. Rồi mối tình cảm sâu đậm đối với Ba Hoa đến với Thu lúc nào không hay,” nàng long lanh nước mắt. “Sao hai người tái hợp, gương vỡ lại lành lần đầu?” tôi hỏi để tránh né điều khó nghĩ. “Khi tiền bạc của cha mẹ để lại cạn kiệt, ảnh bị Quân Bảo bỏ rơi vì không cung ứng nổi nếp sống xa hoa của chàng ta. Ảnh trở về với Thu, khóc lóc xin được tha thứ, và thề bán mạng sẽ sửa đổi tính tình.’ Không đành để ảnh nghèo khổ và vì không muốn con mình thiếu tình thương của cha, Thu chấp nhận cho ảnh một cơ hội thứ hai. Kết quả là thằng út ra đời và gia đình tương đối yên ổn một thời gian, như Ba Hoa thấy ở Bismarck.” Tôi còn thắc mắc cuối cùng, “Thu dọn khỏi North Dakota lúc nào mà không ai hay? Sao hai người xa nhau lần nữa?” “Đầu năm 1980, ảnh đột nhiên nghỉ việc và năn nỉ Thu dọn về nam California nắng ấm có đông người Việt sinh sống. Về đây, sau khi nhà cửa và công ăn việc làm ổn định, ảnh rút hết tiền trong trương mục ngân hàng và dọn ra sống với Quân Bảo. Bấy giờ Thu mới biết chàng ca sĩ từ Việt nam vượt biên sang tới California cả năm trước.” “Thằng cha Mỹ này thật không khá nổi!” “Dầu sao, Thu không giận ảnh. Ảnh phụ rảy Thu để theo đuổi tình yêu, người kia là đàn ông hay đàn bà không thành vấn đề. Khi yêu, người ta đặt người mình yêu lên trên hết. Ba Hoa nhớ không, ngày xưa hai đứa mình hay chia xẻ với nhau câu nói của Blaise Pascal 1623 – 1662, Trái tim có những lý lẽ mà lý trí không biết gì cả.’ Riêng Thu, gần hai mươi năm qua ấp ủ một mối tình nồng thắm và cố hết sức mình để người Thu yêu được sung sướng và hạnh phúc.” Chúng tôi chia tay nhau với nụ hôn phớt nhẹ. Nụ hôn thực sự đầu tiên và cũng là cuối cùng của một cuộc tình không thành sự thật. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 14 tháng Bảy, 2021Thà Chịu Tiếng Lầm Đường Tôi viết thư hàng tuần cho thằng Công; vợ chồng bạn tôi và hai cô con gái nhỏ sống ở Dallas thuộc tiểu bang Texas. Mỗi tối Chủ Nhật nó gọi điện thoại cho tôi cà kê dê ngỗng đủ thứ chuyện, từ chuyện cũ ở Việt nam đến việc đi học, đi làm, và sống trên đất Mỹ. Chúng tôi liên lạc thường xuyên và thân thiết đến nỗi thỉnh thoảng Quỳnh Châu gí tay vào trán tôi nói đùa, “Đàn ông con trai gì mà viết thư cho nhau cứ như là đôi tình nhân . . . đực rựa. May mà em biết rành chồng và anh Công, nếu không con mụ sư tử Hà Đông này sẽ nổi ghen lên cho ôông dôông méo mặt luôn.” Mười bốn năm trước, tôi và thằng Công ngồi cạnh nhau ở dãy bàn đầu lớp đệ tam lớp 10 B3 trường Quốc Học Huế. Hai thằng đều học giỏi, nhất là giỏi toán, và giờ ra chơi nắm tay nhau đi dưới hàng cây cao trong sân trường luận anh hùng Mấy thằng có tiếng học giỏi khác, cao tay lắm là cao thủ hạng ba. Không có hạng nhất hay hạng nhì vì, mặc dù hai đứa chúng tôi ngấm ngầm thi đua học gạo, không thể nói mèo nào cắn mỉu nào! Buổi chiều sau giờ học, tôi theo nó lên chùa học đạo với thầy; nó say mê học hỏi Phật pháp, tôi ưa chất vấn thầy làm sao đạo Phật áp dụng vào đời. Mùa hè năm 1963, gia đình tôi dọn vào Ban Mê Thuột ở với cha. Tôi và thằng Công viết thư cho nhau hàng tuần. Mở đầu thư bằng tiếng gọi trìu mến, “Công thương,” tôi tường thuật sinh hoạt thường ngày ở thành phố Buồn Muôn Thuở Bụi Mù Trời và trong lớp nam nữ học chung, điều mà Huế không có. Nó kể lại những lần về làng đưa con bồ ra đụn cát ngồi bên nhau trò chuyện và lên chùa xin thầy cho thế phát quy y nhưng thầy không cho, biểu phải sống ngoài đời phục vụ thế gian. Tuy nhiên, phần chính của bức thư dày cộm là đề toán đưa ra để đố bạn và bài giải cho các bài toán đố trước, chẳng khác gì các nhà toán học Âu châu đầu thế kỷ thứ 18 trao đổi thư từ thách thức nhau giải toán. Sau khi đậu Tú tài II, chúng tôi thi vào trường Cao đẳng Điện học vì theo lời thằng Công, “trong các ngành học, kỹ sư điện là ngành dùng toán cao nhất,” và hai thằng đều trúng tuyển. Ngay trong buổi học đầu tiên là giờ Giải tích, môn toán chính với thầy Thế, thằng Công đứng lên tranh luận với thầy về ý niệm căn bản trong chương đầu tiên của tập cua thầy cho, và tôi làm tài hay đứng ra bênh vực nó khiến thầy nổi giận. Suốt mấy năm học với thầy, tôi học ngày học đêm học chết bỏ vì giờ Hỏi bài sát hạch hàng tuần nào cũng bị thầy chiếu cố tận tình với những bài toán khó nhất, trong lúc thằng Công tiếp tục lý luận tay đôi với thầy và được thầy nể nang. Thầy đã biên soạn và ấn hành cuốn Giải tích Đệ nhị Niên, cuốn sách Việt ngữ đầu tiên và duy nhất về toán áp dụng cao cấp và là niềm hãnh diện sâu xa của tác giả. Cuối năm học thứ hai, thầy gặp riêng nó, “Tôi định tái bản cuốn Giải tích nếu hè này anh giúp tôi hiệu đính; chúng mình sẽ đứng tên chung.” “Cám ơn thầy mời con cộng tác, nhưng con mắc diễn dịch kinh Pháp Hoa nên không thể nhận lời,” thằng Công trả lời không do lúc thằng Công nghiên cứu đạo Phật, tôi và một thằng bạn thân khác là thằng Song nghiền ngȁm các tác phẩm triết lý và say sưa đọc tiểu thuyết hiện sinh. Trong những buổi tối nhâm nhi cà-phê bít tất tiệm Tàu gần nhà trọ tôi, ba ông cụ non gân cổ cãi nhau về chân lý cuộc đời như ba nhà triết gia thực sự. Thằng Công dạy kèm ăn ở luôn trong nhà Bách Hoa, con đầu lòng của một gia đình giàu có và có thế lực. Mẹ nàng đã phỏng vấn nhiều sinh viên mới kén được thằng Công; nó được cơm bưng nước rót, cho ở riêng trong căn phòng khang trang, và được đối xử như con rể tương lai. Thằng Song nói nó tự nguyện đút đầu vào vòng dây thòng lọng nhung của bà mẹ và tham phú phụ bần bỏ rơi con bồ cũ ngoài Huế. Bách Hoa có thể yêu nó, nhưng nàng lãng mạn mộng mơ, hay ghen tuông vô cớ, và thích ra oai chỉ huy sai khiến nó. Mỗi lần nghe nó phàn nàn, thằng Song chỉ cái cột nhà lớn giữa tiệm cười khà khà, “Tối ngày mày ăn xong rờ l… con Bách Hoa, rồi con c… mày to bằng cái cột nhà, làm sao mày mặc quần?” Sau khi thằng Công tốt nghiệp, đám cưới linh đình cử hành trước khi nó lên đường đi du học, học cao học điện toán ở trường Đại học Missouri-Rolla ở Rolla thuộc tiểu bang Missouri. Vài tháng sau, bà mẹ vợ gửi Bách Hoa sang sống với nó, và cô con gái đầu lòng sinh ra trước khi nó tốt nghiệp cao học. Sau đó, vợ chồng nó dọn về Dallas. Nó làm việc cho nha Nghiên cứu và Phát triển của công ty Texas Instruments, một hãng điện tử lớn vào bậc nhất thế giới, nhưng phần lớn thì giờ xách cặp đi học tiến sĩ ở Southern Methodist University là một đại học tư, nổi tiếng của Texas, và học phí rất cao. * * * Quỳnh Châu thường nhắc chuyện năm ngoái 1975 Hai tuần sau khi chúng tôi từ đảo Guam đến trại tỵ nạn Trại Pendleton, tôi nhận được bức thư dài của thằng Công kèm theo tờ giấy bạc một trăm đô la. Cầm trên tay món tiền đầu tiên có được trên đất Mỹ, tôi cảm động khôn xiết vì không những một miếng khi đói bằng một gói khi no, mà một trăm đô la là món tiền lớn đối với một sinh viên mới ra trường, vừa đi học vừa đi làm nuôi vợ con như bạn tôi. Phương chi nó còn phải lo cho gia đình người anh lớn và gia đình bà mẹ vợ đang ở trong trại tỵ nạn Đồn Chaffee chờ ngày ra Dallas định cư. Trong các cuộc điện đàm, không phải lúc nào tôi cũng đồng ý với thằng Công. Thí dụ, lần nó kể kế hoạch xây chùa ở Dallas, “Tau vay tiền nhà băng để mua nhà làm chùa. Sau này, Phật tử sẽ đóng góp để sửa sang thành nơi thờ phụng.” “Sao mày phải đứng mũi chịu sào để vay tiền?” “Phật tử ai cũng đã mua nhà và có mortgage phải trả góp hàng tháng. Tau chưa có nhà nên lãnh chuyện nớ,” nó thản nhiên trả lời; “mortgage” là văn tự vay tiền để mua nhà, bao giờ trả góp hết nợ thì nhà mới về tay mình. “Sao lạ vậy kìa? Chưa có nhà thì lo mua nhà cho mình trước, lẽ nào nai lưng vác ngà voi, lãnh nợ cho thiên hạ?” “Nếu ai cũng ích kỷ như mi thì khi mô mới có chùa để thờ Phật?” C, CPU trước hết phải cộng A và B, lấy kết quả tìm thấy cộng với C, và rồi đem kết quả cuối cùng gán cho X. CPU mỗi lúc chỉ có thể làm một việc; ba công việc nhỏ ấy phải làm tuần tự, việc trước xong mới đến việc sau. Dataflow là phương pháp tạo ra một chương trình điện toán để phân chia mỗi phép tính thành một số công việc nhỏ mà nhiều CPU khác nhau của máy siêu điện toán có thể thực hiện cùng một lúc. Mùa hè 1978 kế tiếp, tôi lại xuống thăm thằng Công. Một tối tôi vừa nói chuyện vừa giúp nó duyệt lãm bài thuyết trình về Dataflow hôm sau nó trình bày với hội đồng quản trị Texas Instruments. Trong một công ty tư, hội đồng quản trị là ủy ban tối cao có quyền bổ nhiệm tổng giám đốc và có nhiệm vụ hoạch định đường lối điều hành và chính sách dài hạn của công ty. Tối hôm sau, không nghe nó đề cập tới cuộc họp ban ngày, tôi dọ hỏi, “Hôm nay thuyết trình ra sao? Sao mày là kỹ sư nghiên cứu mà lại được vinh dự mời ra hội đồng quản trị?”“Tàm tạm được,” nó uể oải trả lời, “Bọn hắn trả tiền cho tau đi học PhD tiến sĩ cốt để dùng luận án Dataflow của tau. Chừ bọn hắn cần biết chắc chắn dự án có khả thi hay không trước khi chấp thuận ngân sách để chế tạo và tung ra thị trường.” “Rồi mày nói sao?” “Dĩ nhiên là thực hiện được, nhưng tau đang bận chuyện riêng nên không có thì giờ phát triển hay đóng góp thêm. Bọn hắn làm chi thì làm, tau không hứa hẹn chi hết.” “Sao mày bỏ qua cơ hội bằng vàng như vậy?” tôi trợn mắt nhìn nó. “Tau đang viết sách chứng tỏ Phật giáo không những là tôn giáo dân chủ hoàn hảo mà còn là triết lý vô cùng khoa học. Thì giờ mô mà lo chuyện bao đồng?” Tôi lặng người nhưng cố vớt vát, “Hay mày để ra vài ba ngày viết các chi tiết kỹ thuật về Dataflow ra cho tao?” “Để làm chi?” “Tao đi thuê luật sư lấy bằng sáng chế. Cầm bằng sáng chế trong tay là mình giàu to, thằng IBM không mua thì thằng Hewlett-Packard hay thằng khác cũng giành mua. Nó không chế để bán thì cũng mua cất giữ cho thằng khác khỏi chế. Sau đó, mày khỏi cần đi làm, tao có đủ tiền cho mày tu học.” “Đừng xúi tau vướng vào Tam Chướng – Tham Sân Si, ba điều trở ngại cho việc cởi bỏ oan nghiệt.” “Chính mày mới là Sân Si – giận và ngu tối. Riêng về Tham thì đây không phải là tham lam lấy của người, kéo nhà người khác về làm chuồng heo như người Việt, mà tối đa hóa lợi nhuận’ theo thuyết kinh tế của Adam Smith,” tôi nói lớn tiếng. Adam Smith 1723 – 1790 là nhà kinh tế và triết gia người Tô Cách Lan được xem là cha đẻ của kinh tế học và chủ nghĩa tư bản. Thằng Công cười mỉa. “Kinh tế tư bản khiến người giàu càng giàu hơn, kẻ nghèo càng nghèo thêm?” “Mày lầm rồi! Khi mọi người được hưởng lợi nhuận do công sức mình làm ra, cái Tham ấy là động lực khiến họ làm việc hăng say, cố gắng phát minh sản phẩm tân kỳ và hữu ích, và không ngừng cải tiến phương cách làm việc để có hiệu quả hơn và sản phẩm tốt và rẻ hơn. Nhờ đó, người nghèo cũng được hưởng lợi ích và mức sống họ cao hơn.” Trở về đề nghị của mình, tôi cố gắng một lần cuối, “Bỏ qua chuyện lợi danh, hoàn tất công trình nghiên cứu là đóng góp kiến thức mới cho nhân loại và giúp cải thiện đời sống của mọi người, giàu cũng như nghèo.” “Tau không màng thế sự; mi là Phật tử lầm đường, đừng ép tau tơ vương vào cõi trần tục,” thằng Công nói chắc như đinh đóng cột. Tôi cảm phục thằng Công ở chỗ nó hết lòng tôn sùng đạo Phật, say mê Phật pháp, và không màng lợi danh. Nhưng tôi thà chịu tiếng Phật tử lầm đường còn hơn lẩn tránh trách nhiệm đóng góp cho đời, cho Chúng sinh của nhà khoa học. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 28 tháng Bảy, 2021Còn Đáng Mặt Đàn Ông Mỗi tối thứ Sáu tôi và Quỳnh Châu dành trọn thì giờ cho nhau và cho Mạc sau cả tuần lễ đầu tắt mặt tối chạy đua với đồng hồ. Buổi chiều tôi đi làm chuồn về sớm và giúp nàng tắm rửa, mang quần áo đẹp, và sửa soạn cho Mạc đi chơi. Bắt đầu buổi tối “ra phố,” chúng tôi đi kéo ghế, tức là đi ăn tiệm. Vào tiệm ăn, rổ trẻ con của Mạc đặt nằm trên ghế và chiếm một chỗ như người lớn; tôi vừa ăn vừa đút thức ăn trẻ con mang từ nhà theo cho bé. Ăn xong, chúng tôi vào thương xá và đặt Mạc vào xe đẩy trẻ con đẩy đi loanh quanh xem hàng hóa bày bán đến khi bé buồn ngủ bắt đầu quấy. Hôm nay bữa ăn chiều có thêm thằng Sang em kế tôi. Nó đã dọn nhà ra ở riêng, và thỉnh thoảng bị cha gọi điện thoại sai làm những việc mấy đứa nhỏ ở nhà không làm được đúng hơn là thoái thác được. Có thêm thằng Sang, không khí trở nên náo hoạt hẳn lên. Nó kêu bia uống tì tì và gọi món ăn mắt tiền nhất trong thực đơn vì, “Lâu lâu mới được ăn chùa của anh Ba Hoa, phải ăn cho đáng đồng tiền bát gạo,” và huyên thiên kể chuyện khôi hài để chọc cười. Nó hỏi tôi, “Anh còn nhớ thằng Xương thời mình đi giang hồ và ở lậu trong Đại học xá Minh Mạng không?” “Cái anh chàng Xương chuyên chơi trò ở trần mặc quần xà lỏn đứng trước cửa đại học xá ngắm nữ sinh trường Fraternité trường Bác Ái đi học về ấy à? Bây giờ nó ở đâu?” “Nó ở vùng nam California, mới liên lạc với tui hơn một tuần nay,” nó quay sang Quỳnh Châu, “Hồi đó tui chơi thân với hắn và nói mãi hắn chẳng thèm nghe nên một hôm tui tìm thêm hai đứa bạn khác, nhất định cho hắn một vố nhớ đời. Tụi tui đợi đến giờ . . . cao điểm, nghĩa là lúc các cô đi qua đông nhất, mới ra tay cưỡng bách hắn thoát y, nói nôm na là tuột quần hắn!” Quỳnh Châu cười khúc khích, “Làm gì mà phải cần đến ba tay vai u thịt bắp?” “Lưng quần xà lỏn luồn dây thun nên kéo tuột xuống dễ ợt. Tuy nhiên, tụi tui tính chuyện chắc ăn Hai đứa đứng hai bên cùng kéo xuống một lúc. Đánh mau, đánh mạnh, hắn không kịp trở tay,” thằng Sang rán nín cười. “Còn người thứ ba?” “Thằng đó rình sau lưng, thủ sẵn que củi, và đợi quần tụt xuống thì đút ngay que củi vào khoảng trống chính giữa. Thằng Xương lẹ tay cách mấy cũng không sao kéo quần lên kịp, đành phô trương của quý’ cho các cô Fraternité chiêm ngưỡng.” Tôi chợt nhớ ra và hỏi thằng Sang, “Thằng Xương chơi với mày từ thuở nhà mình ở Tuy Hòa, nó là cháu gọi bác Hoàng chánh án bằng cậu em mẹ, phải không?” “Đúng vậy,” nó giải thích với Quỳnh Châu, “Ông chánh án thân với ông già mình, và anh Sơn con đầu của ông ta là kỹ sư công chánh học cùng với anh Ba Hoa.” “Mày đến không hẳn để thăm tụi tao mà còn thừa lệnh ông già?” tôi nghi ngờ hỏi nó.“Anh đoán trúng chóc, tui tới để truyền thánh chỉ’! Thằng Xương di tản sang đây với gia đình ông Hoàng, và nhờ hắn liên lạc được với tui mà ông chánh án biết số điện thoại của cha. Ông ta gọi năn nỉ ỉ ôi lạy lục cha nhờ anh tìm địa chỉ của anh Sơn bên Pháp. Cha đồng ý và ra lệnh cho anh làm việc đó. Đó, nhiệm vụ của tui tới đây là hết,” thằng Sang cười khì khì. Cha và bác Hoàng cùng trang lứa và làm bạn với nhau từ ngày còn bé ngoài quê Quảng Bình. Lớn lên, cha vào quân đội, bác làm công chức. Bác có nhiều hoài bão và lần hồi tiến thân bằng đường học hành. Ban ngày đi làm, ban đêm cắm cúi học, bác đậu tú tài, sau đó ghi tên học luật, nhờ người lấy cua về nhà học, và cuối cùng đậu bằng cử nhân luật và được bổ nhiệm làm chánh án tỉnh Phú Yên vài năm trước khi cha về cầm đầu tỉnh. Năm đệ nhất niên kỹ sư điện, tôi học chung các môn khoa học cơ bản với thằng Sơn. Tuy mang tiếng “quê nhà” ở Tuy Hòa Phú Yên, mãi đến mùa hè hai năm sau tôi mới về thành phố duyên hải nhỏ bé hiền hòa ấy, không như thằng Sơn đã từng học trung học và quen biết nhiều nữ sinh ở đó. Nó đứng đắn đàng hoàng, ăn nói nhỏ nhẹ, cử chỉ dịu dàng như con gái, và mặt mày trắng trẻo đẹp trai; đúng là mȁu người lý tưởng của các thiếu nữ đương thì. Ngược lại, tôi lấc ca lấc cấc, đi đứng hành động ào ào, và nói năng bất cần đời, mở miệng sặc mùi triết lý hiện sinh “cuộc đời phi lý và buồn nôn” và “con người trong xã hội cần nổi loạn.” Thằng Sơn thường được cha dùng làm mực thước để la mắng tôi. Mùa nghỉ hè đến, tôi nấn ná ở lại Sài gòn chơi với bạn rồi đi xe đò lên Đà Lạt, xuống Nha Trang, và ngao du sơn thủy một vòng rồi mới về nhà. Thằng Sơn thì sau ngày bãi trường vội vàng bay về Tuy Hòa và được bác Hoàng xin cho một chân thông dịch viên làm hè trong căn cứ Không quân Hoa kỳ bên phi trường Đông Tác, căn cứ không quân lớn thứ nhì ở miền Trung, chỉ sau Đà Nẵng. Bác khoe nó giỏi Anh văn và chăm chỉ làm việc phụ giúp lợi tức gia đình. Thế là tôi bị cha hành tội, “Con người ta giỏi giắn, nghỉ hè lo về đi làm kiếm tiền đưa cho cha. Còn con tau đem đồng tiền xương máu của tau đi chơi, chẳng thèm đoái hoài đoái quở tới cha mẹ em út.” Cha hạch tội tôi chỉ đúng một nửa – tội đi chơi. Nhưng “đồng tiền xương máu” thì hoàn toàn sai, vì khoản tiền cha cho phép mẹ gửi vào cho tôi hàng tháng chỉ vừa đủ để trả tiền ăn ở nhà trọ. Mọi chi phí khác như tiền sách vở, cà-phê thuốc lá, xi-nê giải trí, đều do tôi dạy kèm tư gia và dạy trung học tư kiếm được. Tôi tức mình nhưng không dám cãi cha bèn qua phi trường Đông Tác xin làm thông dịch viên. Anh sĩ quan Mỹ phỏng vấn cảm phục khả năng nói tiếng Anh lưu loát và kiến thức rộng rãi của tôi bèn đề nghị tôi làm thông dịch viên cho các sĩ quan cao cấp của bộ chỉ huy căn cứ khi họ chính thức tiếp xúc với giới chức cao cấp phía Việt nam – tức là cha và các viên chức trực thuộc. Trước khi tôi được chấp thuận cho nhận việc, hồ sơ điều tra an ninh đi qua tay cha, và tôi bị cha chửi bới, “Thằng con bất hiếu bất mục không biết bảo vệ danh dự gia đình, coi tên tuổi cha hắn như cục cứt. Tau làm đến chức cầm đầu một tỉnh như ri mà hắn cả gan gia tiếng ác nói cha hắn bắt đi làm sở Mỹ lấy tiền.” Một lần khác, bác Hoàng hãnh diện kể rằng ở Sài gòn thằng Sơn cặp bồ với con gái một vị tướng lãnh trong quân đội. Thế là vô cớ tôi bị cha buộc tội vu vơ,“Con người ta đàng hoàng, trai gái với con ôông nọ ôông tê làm cho cha mẹ nở mặt nở mày. Còn con tau đi theo mấy thứ mèo đàng chó điếm, không xứng đáng với địa vị của tau.” Ít lâu sau, ông tướng thông gia tương lai của bác Hoàng bị giáng chức và buộc phải giải ngũ sau biến động chính trị ở miền Trung giữa thập niên 1960, và sau khi tốt nghiệp kỹ sư công chánh, thằng Sơn được học bổng đi Ý học cao học. Ba năm sau, tôi có dịp gặp và kết thân với ông tướng hồi hưu và nhờ đó quen với Thanh Hiền bồ cũ của thằng Sơn. Trong mấy năm qua, nàng vò võ đợi trông người yêu học thành tài trở về, nhưng chàng bỏ trốn qua Pháp, xoay xở ở lại để khỏi về nước bị đi lính, và chấm dứt mọi thư từ liên lạc. Sau một thời gian, nàng nguôi ngoai, tôi giới thiệu nàng với thằng Hữu bạn cùng lớp với tôi. Thằng này và Thanh Hiền thành ý hợp tâm đầu rồi lấy nhau, và dĩ nhiên tôi làm phù rể cho bạn. * * * Tối Chủ Nhật, tôi điện thoại cho bác Hoàng hỏi cho rõ việc bác nhờ, “Thưa bác, lần cuối bác liên lạc với thằng Sơn lúc nào?” “Mùa hè sau Hiệp định Paris 1973. Lúc đó, hắn mới từ bên Ý qua Paris, viết thư nói đời sống bên Pháp rất khó khăn vì nạn thất nghiệp trầm trọng, kịch liệt đả kích chính phủ Việt nam Cộng hòa, và nói sẽ theo phe bên tê.’ Bác giận run viết thư mắng hắn là đồ ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản, lần đầu tiên bác nặng lời với hắn. Sau đó, bác gái nhiều lần viết thư khuyên giải vỗ về, nhưng hắn biệt tăm biệt tích. Bác đã coi hắn và công lao mấy mươi năm dưỡng dục như bỏ xó.” “Sao bây giờ bác muốn tìm nó?” “Năm ngoái 1975 qua tới Mỹ, nơi đất khách quê người, bác gái đâm ra nhớ thằng con đầu lòng yêu thương nhất nhà và buồn rầu sinh bệnh rề rề hoài. Bác gửi thư về địa chỉ trước của thằng Sơn thì thư trả lại vì không có người nhận. Với lòng thương con bao la của người mẹ, bác gái chỉ cần biết chắc hắn còn sống và mạnh khỏe; còn nếu hắn cương quyết từ cha từ mẹ để theo Cộng sản, bác gái cũng chẳng màng.” Tôi viết thư nhờ một người bạn học cũ là Tuệ hỏi tin tức thằng Sơn. Tuệ lúc trước học chương trình trung học Pháp ở Jean-Jacques Rousseau, thi vào trường Điện cùng năm với tôi và đậu đầu tôi đậu thứ ba, học chung với thằng Sơn hai năm đầu tiên, ra trường kỹ sư điện đậu thủ khoa, và được học bổng của chính phủ Pháp sang Paris học tiến sĩ. Khoảng hai tuần sau, tôi nhận được thư trả lời của Tuệ, thư chứa một số chi tiết khiến tôi bàng hoàng. Ngày thằng Sơn đi xe lửa sang Paris, xuống Ga Lyon ở Quận 12 – không tiền, không người quen. Nó hầu như không tin sự may mắn của mình khi thấy một thiếu phụ Pháp tóc vàng xinh đẹp tênNadine chờ đón ở sân ga. Bọn Việt Cộng ở Pháp và Cộng sản Pháp thường cho người chờ đón mấy kẻ lang thang cù bơ cù bất đói lạnh ở bến tàu và ga xe lửa, mang về cho ăn ở, và khuyến dụ theo chúng. Trước khi trở thành cán bộ Cộng sản, Nadine có một thời đứng đường bán thân nuôi miệng ở khu Pigalle nằm ở ranh giới Quận 9 và Quận 18 và được biết dưới tên Nadine “le trompette” người thổi kèn vì ngón làm tình bằng miệng điệu nghệ của nàng. Nàng đem lòng yêu thương chàng thanh niên da vàng đẹp trai và thông thái, và hai người sống chung trong căn apartment ở khu ngoại ô trung lưu Clichy-sous-Bois. Địa chỉ số 44 đại lộ Madrid ở khu ngoại ô giàu có Neuilly-sur-Seine nó dùng để gửi thư cho bác Hoàng lúc trước là của trụ sở Phái bộ Ngoại giao Việt Cộng. Sau vài lần viết thư cho thằng Sơn về địa chỉ mới ở Clichy-sous-Bois mà không thấy trả lời, bác Hoàng quyết định bay sang Paris tìm nó hỏi cho ra lẽ. Bác đến căn apartment bấm chuông, Nadine ra mở cửa. Thằng Sơn ngồi trong phòng khách, không đứng dậy chào, và cũng chẳng nói chẳng rằng. Bác hỏi bằng tiếng Việt, nó trơ mặt không thèm trả lời. Bác la lớn bằng tiếng Pháp thì Nadine can thiệp, “Ông và Sơn hai người hai bên chiến tuyến, không thể thỏa hiệp và không còn gì để nói. Nếu ông không lập tức ra khỏi đây, tôi sẽ gọi cảnh sát.” Bác Hoàng tức giận đắng cay và trước khi bỏ đi, muốn chửi thằng Sơn một câu cho đã nư. Nhưng không biết chửi làm sao. Chửi tổ tiên nó là tự chửi ông bà mình. Chửi nó “mất dạy bất hiếu” là tự mắng mình không biết dạy con. Rốt cuộc bác nhìn thằng Sơn, chỉ tay vào mặt Nadine, và phun ra câu chửi tục rất . . . Quảng Bình, “Con đầm ni, hắn bú c… mi cho mi sướng điên lên rồi quên cả cha mẹ ông bà.” Sau ngày bác Hoàng đi Pháp về, biết thằng Sơn sống yên ổn, bác gái bớt phiền muộn và dần dần phục hồi sức khỏe. Khoảng ba tháng sau tôi nhận được thư Tuệ, trong đó “moi” đọc là “moa” và “toi” đọc là “toa” tiếng Pháp nghĩa là “tao/tôi” và “mày/anh,” Báo tin cho toi biết là Sơn đã qua đời. Moi đi dự đám tang và có dịp nói chuyện khá lâu với Nadine. Năm 1973, lần đầu tiên Sơn thử lửa đi Marseille công tác cho Việt Cộng với Nadine thì bị tai nạn xe hơi. Nadine không hề hấn gì, nhưng Sơn bị thương rất nặng phải nằm nhà thương khá lâu. Từ đó, Sơn bị bán thân bất toại, không thể tự di chuyển hay săn sóc mình, và mất trên 80 phần trăm khả năng nói. Sơn đã dặn Nadine giữ kín điều này cho đến khi Sơn chết. Dù hèn nhát và phản bội, thằng Sơn cũng còn đáng mặt đàn ông Thà mang tiếng bất hiếu bất nghĩa và chịu đau đớn, còn hơn để cha mẹ phải ưu phiền khổ đau vì mình mà chả đi đến đâu. Không đến nỗi quá tệ! Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 11 tháng Tám, 2021

trời cao đất dày